Kinh Thánh Cựu Ước

Ysaya

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | | 25 | | 26 | | 27 | | 28 | | 29 | | 30 | | 31 | | 32 | | 33 | | 34 | | 35 | | 36 | | 37 | | 38 | | 39 | | 40 | | 41 | | 42 | | 43 | | 44 | | 45 | | 46 | | 47 | | 48 | | 49 | | 50 | | 51 | | 52 | | 53 | | 54 | | 55 | | 56 | | 57 | | 58 | | 59 | | 60 | | 61 | | 62 | | 63 | | 64 | | 65 | | 66 | |


- Chương 63 -

 

Ngày báo phục

1 Ai đó kìa từ Eđom đi đến, từ Bosra lại, y thường đỏ thắm?

Người oai vệ trong chiếc nhung bào, sấn sả lại rất hùng dũng,

chính Ta, Ðấng phán theo đức nghĩa, Ðấng mạnh thế để ra tay cứu độ.

2 Tại sao nhung bào của Người lại đỏ,

và y phục Người như kẻ đạp bồn nho?

3 Một mình Ta, Ta đạp bồn nho,

giữa muôn dân, không có người nào (hiệp lực) với Ta.

Ta đã dẵm đạp chúng trong cơn nghĩa nộ.

Ta đã chà nát chúng giữa trận lôi đình.

Huyết dịch chúng vọt lên áo Ta, khiến Ta làm vấy nhơ cả y phục.

4 Vì có nơi lòng Ta, một ngày báo oán, và năm báo phục của Ta đã đến.

5 Ta ngoảnh nhìn mà không người trợ giúp,

Ta sửng sốt vì không ai hộ vực. Nên cánh tay Ta đã đáp cứu Ta,

và lôi đình của Ta đã hộ vực Ta.

6 Trong cơn nghĩa nộ, Ta đã chà đạp các dân,

Ta đã đập tan chúng trong trận lôi đình,

Ta đã cho máu chúng chảy lan dưới đất.

 

Suy gẫm trên Thánh sử

7 Công ơn của Yavê, tôi xin tưởng niệm,

những lời khen ngợi Ðức Yavê,

chiếu theo muôn sự Yavê đã viên thành cho chúng tôi,

và lòng tốt của Người với nhà Israel,

(lòng tốt) Người đã thi thố ra với nó,

theo lòng thương xót của Người,

theo lường bao la các công ơn Người.

8 Người phán: "Ðã hẳn chúng là dân Ta,

hàng con cái không thói lật lọng".

Và đối với chúng, Người đã là Ðấng cứu độ,

9 trong mọi nỗi ngặt nghèo của chúng.

Không phải sứ giả hay thiên thần,

nhưng chính Nhan Người đã cứu chúng;

bởi lòng yêu thương trắc ẩn của Người, Người đã chuộc lấy chúng.

Người đã nâng, đã nhắc chúng lên suốt những ngày thuở xưa.

10 Nhưng chúng đã là loạn tặc,

và đã xúc phạn đến thánh khí của Người,

và đối với chúng Người đã hóa nên như một kẻ thù,

chính Người đã giao chiến với chúng.

11 Bấy giờ chúng đã nhớ lại những ngày thuở xưa,

(nhớ) đến kẻ giựt thoát dân Người:

Ðâu rồi Ðấng đã cho chúng lên khỏi lòng biển,

cùng với kẻ chăn dắt đàn chiên của Người?

Ðâu rồi Ðấng đã đặt nơi lòng nó thánh khí của Người?

12 Ðấng, bên phải Môsê, đã vung ra cánh tay uy lẫm của Người,

Ðấng chẻ sóng nước trước mặt chúng,

để gây Danh muôn đời cho mình.

13 Ðấng dẫn chúng đi qua vực thẳm,

như ngựa rong trong chốn đồng không. Chúng đã trợt ngã,

14 (chững chàng) như bò bê xuống đồng.

Thần khí Yavê đưa chúng đến nơi an nghỉ.

Người đã dẫn dân Người đi như thế,

để gân Danh sán lạn cho Người.

15 Từ trời xin ngoảnh lại đoái nhìn,

từ thánh cung sán lạn của Người:

Ðâu rồi sự đố kị và dũng khí của Người,

và khúc nôi lòng Người trìu mến?

Phải chăng Người đã cầm mình hết dạ chạnh thương đối với tôi?

16 Vì chính Người là Cha chúng tôi, Abraham đâu có biết chúng tôi.

Israel đâu có nhận ra chúng tôi. Chính Người là Cha chúng tôi,

Ðấng chuộc lấy chúng tôi từ ngàn xưa, đó là Danh Người.

17 Nhân sao, lạy Yavê,

Người lại để chúng tôi lạc xa đường lối của Người,

và để chúng tôi cứng lòng không biết kính sợ Người?

Xin hãy trở lại, nhân vì các tôi tớ của Người,

những bộ tộc thuộc cơ nghiệp của Người.

18 Nhân sao ác nhân khinh nhẹ cung thánh của Người

và nghịch thù chúng tôi đã chà đạp thánh điện của Người?

19 Từ lâu rồi, chúng tôi đã nên (dân) Người không cai quản,

(và) trên chúng, Danh Người không được kêu khấn.

Ước gì Người xé trời Người xuống,

Trước nhan Người các núi rung rinh.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page