Kinh Thánh Cựu Ước

Ysaya

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | | 25 | | 26 | | 27 | | 28 | | 29 | | 30 | | 31 | | 32 | | 33 | | 34 | | 35 | | 36 | | 37 | | 38 | | 39 | | 40 | | 41 | | 42 | | 43 | | 44 | | 45 | | 46 | | 47 | | 48 | | 49 | | 50 | | 51 | | 52 | | 53 | | 54 | | 55 | | 56 | | 57 | | 58 | | 59 | | 60 | | 61 | | 62 | | 63 | | 64 | | 65 | | 66 | |


- Chương 05 -

 

Bài ca vườn nho

1 Tôi xin hát về người bạn tôi,

bài ca của người bạn yêu về vườn nho của Người.

Bạn tôi có một vườn nho, chênh chếch mỏm đồi mầu mỡ.

2 Người vỡ đất, người nhặt đá, người đã trồng nho đan tử.

Giữa vườn Người cất tháp canh, và khoét sẵn cả một bồn đạp nho.

Người trông nó sẽ sai trái; nhưng nó đã sinh nho dại.

3 Bây giờ dân Yêrusalem hỡi, và chư vị người Yuđa,

xin phân xử việc tôi và vườn nho tôi!

4 Nào đối với vườn nho của tôi,

có gì phải làm nữa mà tôi đã không làm?

Tại sao tôi trông nó sai trái, nó lại sinh nho dại?

5 Vậy bây giờ, tôi xin tỏ cho các người hay,

tôi sắp làm gì cho vườn nho của tôi!

Cất đi rào giậu để chăn nuôi, đập hổng tường đi, làm đồng cỏ;

6 Tôi sẽ biến nó thành hoang địa: Không tỉa sạch, không cuốc xới,

mặc cho cỏ hoang, gai dại mọc lên.

Với mây trời, tôi sẽ ra lịnh không được mưa xuống trên nó.

7 Quả nhiên, vườn nho của Yavê các cơ binh, ấy là nhà Israel,

và người Yuđa là điền viên vui thú của Người.

Người trông có được minh chính nhưng này manh tâm,

thay vì nghĩa dày thì này những ai oán.

 

Chúc dữ

8 Khốn cho những kẻ đầu cơ nhà liền nhà,

ruộng nối ruộng từng thôi cho kỳ hết chỗ,

để mình độc quyền cư trú trên toàn nội địa.

9 Vì chưng, bên tai tôi, Yavê các cơ binh đã thề:

Quả thật, nhiều nhà sẽ thành hoang địa,

đồ sộ đẹp sang nhưng không người ở.

10 Vì mười sào nho không được một thùng rượu,

một quảy lúa giống không được một giạ lúa mùa.

11 Khốn cho những người, sáng ngày dậy sớm đuổi theo rượu,

và chập tối còn nán lại cho rượu nung nấu chúng.

12 Và hòa với tiệc rượu có cầm sắt trống kèn.

Nhưng đại sự của Yavê, chúng không ngó đến,

việc tay Người làm, chúng chẳng nhìn xem.

13 Cho nên dân ta phải đi đày, bởi không hiểu biết,

và thế giá kiệt sức vì đói! Lê dân khô queo vì khát!

14 Cho nên âm phủ banh họng ra và há mồm ra vô độ:

Và sẽ nhào vào đó cả phồn hoa lẫn đô hội,

cảnh huyên náo với người hưởng lạc trong thành.

15 Phàm nhân đã gục xuống, loài người đã xẹp,

mắt ngạo nghễ đã cụp xuống.

16 Yavê các cơ binh đã ra uy trong sự công minh,

và Thiên Chúa là Ðấng Thánh đã hiển thánh trong đức nghĩa.

17 Như một bãi hẻo lánh, ở đó đoàn chiên ăn cỏ,

và chỗ xưa đầy thú béo nay thành phế tích,

dân vô định cư kiếm kế sinh nhai.

18 Khốn cho những kẻ dùng dây tà lôi tội ác,

và như thể dùng thừng kéo xe lôi tội vạ;

19 những kẻ nói: "Phải chi việc của Người mau trở lại, chóng đến,

để ta được thấy; phải chi mưu định Ðấng Thánh của Israel đã quyết,

đến gần, nên ứng nghiệm, cho ta được tường".

20 Khốn cho những kẻ về sự dữ thì nói:

Lành! Về sự lành thì nói: Dữ!

Những kẻ cho tối là sáng, cho sáng là tối,

những kẻ cho đắng là ngọt, cho ngọt là đắng.

21 Khốn cho những kẻ híp mắt thấy mình khôn,

và thông không quá mắt mình.

22 Khốn cho những anh hùng, anh hùng tửu lượng,

cho hạng tài ba, tài ba pha rượu,

23 Những kẻ vì biếu xén giải án ác nhân,

và giựt lẽ công của người công chính.

24 Cho nên như ngọn lửa thiêu xèo cọng rơm,

và cỏ khô rụi xuống trước hỏa hào, rễ chúng sẽ thành đồ mục,

và hoa của chúng như bụi trên đàng sẽ bị cuốn đi!

Vì chúng đã khước từ thánh chỉ Yavê các cơ bình,

và khinh màng sấm ngôn Ðấng Thánh của Israel.

 

Thịnh nô của Yavê

25 Cho nên nộ khí Yavê bốc cháy trên dân Người;

Người đã giang tay đánh phạt chúng, khiến núi non cũng lẩy bẩy,

và thây chúng ngổn ngang như phân rác ngoài đường phố.

Dẫu thế Người cũng đã chẳng thu hồi khí nộ,

và tay Người vẫn còn giương lên.

 

Kêu gọi kẻ xâm lăng

26 Người phất cờ ra hiệu cho một nước từ phương xa lại,

Người huýt gọi nó lại từ mút cùng mặt đất,

và này chúng vội đến lanh chai.

27 Trong ba quân, ai không mệt, không kẻ chồn chân,

chúng chớp mắt cũng không ngủ, nai nịt bên hông không hề cởi,

giày dép chân chúng quai không đứt.

28 Tên bắn của chúng đều mài nhọn, mọi cung nỏ đều trương sẵn,

móng ngựa chúng coi dường đá lửa, bánh xe lăn đi như vũ bão.

29 Tiếng chúng rống như tiếng sư tử, chúng gầm như cọp non,

chúng gầm, chúng quắp lấy mồi, tha đi mà không người gỡ thoát.

30 Trong ngày ấy, trên nó gầm thét vang dội như biển gào sóng vỗ.

Nhìn xuống đất, thì này tối tăm, quẫn bách,

sớm mai tối sầm giữa những mây mù.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page