Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Khởi Nguyên

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | | 25 | | 26 | | 27 | | 28 | | 29 | | 30 | | 31 | | 32 | | 33 | | 34 | | 35 | | 36 | | 37 | | 38 | | 39 | | 40 | | 41 | | 42 | | 43 | | 44 | | 45 | | 46 | | 47 | | 48 | | 49 | | 50 | |


- Chương 11 -

 

Tháp Babel

1 Khắp nơi trên đất cùng một ngôn ngữ, từng tiếng như nhau. 2 Xảy ra là trong khi họ thiên cư bên phương Ðông thì họ đã tìm thấy một cánh đồngở đất Sinêar; và họ đã đậu cư ở đó. 3 Họ nói với nhau: "Nào! Ta hãy đúc gạch và nung lò!" Gạch, họ lấy làm đá, và lịch thanh làm hồ. 4 Ðoạn họ nói: "Nào! Ta xây thành ta ở, và xây tháp, ngọn sao cho thấu trời! Ta hãy gây danh cho ta! ngõ hầu ta khỏi bị phân tán ra khắp mặt đất". 5 Yavê đi xuống để xem thành và và cây tháp, con cái loài người đang xây. 6 Và Yavê nói: "Này hết thảy chúng là một dân duy nhất, một ngôn ngữ như nhau. Chúng đã bắt đầu làm thế, thì từ nay còn có mưu định nào mà chúng lại không có thể làm nổi. 7 Nào! Ta xuống! Ở đó, Ta hãy làm cho ngôn ngữ chúng ra ba la ba láp, sao cho chúng không hiểu được ngôn ngữ của nhau". 8 Và tự đó Yavê đã phân tán họ ra khắp mặt đất. Và họ đã thôi xây thành. 9 Bởi thế mà thiên hạ gọi tên thành là Babel vì ở đó Yavê đã làm cho ra ba la ba láp ngôn ngữ của khắp nơi trên đất. Và chính tự đó Yavê đã phân tán họ ra khắp mặt đất.

 

Các Tổ phụ sau lụt Hồng thủy

10 Ðây là dòng dõi của Sem: Sem sống được một trăm năm thì đã sinh ra Arpakshad, hai năm sau Hồng thủy. 11 Sau khi sinh ra Arpakshad, Sem đã sống năm trăm năm và ông đã sinh con trai con gái.

12 Arpakshad sống được ba mươi lăm năm, thì sinh ra Selakh. 13 Sau khi sinh ra Selakh, Arparkshad đã sống bốn trăm lẻ ba năm. Ông đã sinh con trai con gái.

14 Selakh sống được ba mươi năm, thì đã sinh Eber. 15 Sau khi sinh ra Eber, Selakh đã sống bốn trăm lẻ ba năm. Ông đã sinh con trai con gái.

16 Eber sống được ba mươi mốn năm thì đã sinh ra Pêleg. 17 Sau khi sinh ra Pêleg, Eber đã sống bốn trăm ba mươi năm. Ông da94 sinh con trai con gái.

18 Pêleg sống được ba mươi năm thì đã sinh ra Rơu. 19 Sau khi sinh ra Rơu, Pêleg đã sống hai trăm lẻ chín năm. Ông đã sinh con trai con gái.

20 Rơu sống được ba mươi hai năm thì đã sinh ra Sôrug. 21 Sau khi sinh ra Sơrug, Rơu đã sống hai trăm lẻ bảy năm. Ông đã sinh con trai con gái.

22 Sơrug sống được ba mươi năm thì đã sinh ra Nakhor. 23 Sau khi sinh ra Nakhor, Sơrug đã sống hai trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái.

24 Nakhor sống được hai mươi chín năm thì đã sinh ra Terakh. 25 Sau khi sinh ra Terakh, Nakhor đã sống một trăm mười chín năm. Ông đã sinh con trai con gái.

26 Terakh sống được bảy mươi năm thì đã sinh ra Abram, Nakhor, và Kharan.

 

Dòng dõi của Têrakh

27 Ðây là dòng dõi của Têrakh: Têrakh sinh ra Abram, Nakhor, và Kharan. Kharan sinh ra Lot. 28 Kharan đã chết trước mặt Têrakh, cha mình, ở nơi sinh quán, Ur của dân Kanđê. 29 Abram và Nakhor đã cưới vợ: tên người vợ của Abram là Saray, và tên người vợ của Nakhor là Milkah, con của Kharan: (Kharan) là cha của Milkah và Yiskah. 30 Vả Saray là người son sẻ: bà không có con. 31 Têrakh đã đem Abram con ông và Lot cháu ông và là con của Kharan, cùng với Saray, con dâu của ông, vợ của Abram, con ông. Ông đã đem họ ra khỏi Ur của dân Kanđê để đến đất Canaan. Họ đến Haran và đã đậu cư ở đó. 32 Ngày đời của Têrakh là hai trăm lẻ năm năm. Ðoạn ông chết tại Haran.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page