Kinh Thánh Cựu Ước

Thánh Vịnh

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Thánh Vịnh :  | | 001 | | 002 | | 003 | | 004 | | 005 | | 006 | | 007 | | 008 | | 009 | | 010 | | 011 | | 012 | | 013 | | 014 | | 015 | | 016 | | 017 | | 018 | | 019 | | 020 | | 021 | | 022 | | 023 | | 024 | | 025 | | 026 | | 027 | | 028 | | 029 | | 030 | | 031 | | 032 | | 033 | | 034 | | 035 | | 036 | | 037 | | 038 | | 039 | | 040 | | 041 | | 042 | | 043 | | 044 | | 045 | | 046 | | 047 | | 048 | | 049 | | 050 | | 051 | | 052 | | 053 | | 054 | | 055 | | 056 | | 057 | | 058 | | 059 | | 060 | | 061 | | 062 | | 063 | | 064 | | 065 | | 066 | | 067 | | 068 | | 069 | | 070 | | 071 | | 072 | | 073 | | 074 | | 075 | | 076 | | 077 | | 078 | | 079 | | 080 | | 081 | | 082 | | 083 | | 084 | | 085 | | 086 | | 087 | | 088 | | 089 | | 090 | | 091 | | 092 | | 093 | | 094 | | 095 | | 096 | | 097 | | 098 | | 099 | | 100 | | 101 | | 102 | | 103 | | 104 | | 105 | | 106 | | 107 | | 108 | | 109 | | 110 | | 111 | | 112 | | 113 | | 114 | | 115 | | 116 | | 117 | | 118 | | 119 | | 120 | | 121 | | 122 | | 123 | | 124 | | 125 | | 126 | | 127 | | 128 | | 129 | | 130 | | 131 | | 132 | | 133 | | 134 | | 135 | | 136 | | 137 | | 138 | | 139 | | 140 | | 141 | | 142 | | 143 | | 144 | | 145 | | 146 | | 147 | | 148 | | 149 | | 150 | |


- Thánh Vịnh 073 (072) -

Công chính chung cuộc

 

1 Thánh vịnh. Của Asaph.

Vâng, Thiên Chua thật tốt lành với Israel,

với những người có lòng trong sạch!

2 Còn tôi chỉ một ít nữa là đã trượt chân,

một ly nữa là nhào bước;

3 Tôi những phân bì bọn người kiêu hãnh,

thấy phường ác nhân an thịnh.

4 Quả vậy tai ách chúng không gặp,

thân thể chúng an lành phì nộn.

5 Thiên hạ lam lũ, chúng vô can,

với người đời, chúng không mắc họa.

6 Nên kiêu ngạo là kiềng chúng đeo,

và bạo tàn là y phục chúng diện.

7 Mắt chúng chình ình những mỡ,

lòng chúng nảy ra những ý nghĩ ngông cuồng.

8 Trề môi, chúng nói những lời độc địa,

dương oai, chúng hăm dọa bạo hành.

9 Miệng chúng, chúng chọc trời,

lưỡi chúng ngang dọc cõi đất.

10 Nên dân tôi hùa theo phía đó,

và nước dẫy tràn làm chúng thỏa thuê.

11 Chúng nói: "Làm sao Thiên Chúa biết được?

Ðấng Tối Cao có biết được không?"

12 Coi kìa: chúng là ác nhân,

nhưng chúng an nhàn mãi mãi và của vào như nước!

13 Uổng công thay, việc tôi giữ lòng trong trắng,

và tay rửa tinh sạch vẹn toàn.

14 Suốt ngày tôi bị đánh nhừ,

và sáng sáng, tôi bị thẳng tay trừng trị.

15 Ví thử tôi nói: Tôi sẽ nói năng như chúng!

thì này tôi đã phản tông dòng con cái của Người!

16 Nên chi tôi đã nghĩ lung cố hiểu,

trước mắt tôi đó là điều khó!

17 Cho đến khi tôi vào trong các thánh điện Chúa Trời,

và được am tường về hậu vận của chúng;

18 Vâng, Người đặt chúng trên khúc đường trơn,

Người xô chúng nhào vong mạng.

19 Làm sao chỉ một lát chúng nên đồ khủng khiếp,

xong đời! hết cả! Trong kinh hoàng!

20 Như giấc mộng khi bừng tỉnh, lạy Chúa,

thức dậy, Người xua hình ảnh chúng đi!

21 Khi lòng tôi xót bỏng,

và cật tôi nhói lên,

22 tôi là đồ cục súc vô tri,

thật là trâu ngựa đối với Người!

23 Phần tôi, tôi hằng ở bên Người,

Người đã nắm chặt tay tôi,

24 Người bảo ban, Người dắt tôi đi,

rồi Người sẽ đem tôi đi với Người sau ánh vinh quang.

25 Nào tôi có ai trên trời?

với Người, tôi chẳng màng gì dưới đất!

26 Xác tôi, lòng tôi hao mòn,

ôi! Ðá tảng của lòng tôi,

Thiên Chúa, phần riêng tôi cho đến muôn đời!

27 Vì này ai xa Người sẽ bị tiệt vong,

Người tru diệt mọi kẻ thất tín với Người.

28 Còn tôi, hạnh phúc là được lại gần Thiên Chúa,

Chúa Yavê, tôi chọn làm nơi nương náu,

ngõ hầu thuật lại các kỳ công của Người,

(nơi cổng nhà nữ tử Sion).

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page