Kinh Thánh Cựu Ước

Thánh Vịnh

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Thánh Vịnh :  | | 001 | | 002 | | 003 | | 004 | | 005 | | 006 | | 007 | | 008 | | 009 | | 010 | | 011 | | 012 | | 013 | | 014 | | 015 | | 016 | | 017 | | 018 | | 019 | | 020 | | 021 | | 022 | | 023 | | 024 | | 025 | | 026 | | 027 | | 028 | | 029 | | 030 | | 031 | | 032 | | 033 | | 034 | | 035 | | 036 | | 037 | | 038 | | 039 | | 040 | | 041 | | 042 | | 043 | | 044 | | 045 | | 046 | | 047 | | 048 | | 049 | | 050 | | 051 | | 052 | | 053 | | 054 | | 055 | | 056 | | 057 | | 058 | | 059 | | 060 | | 061 | | 062 | | 063 | | 064 | | 065 | | 066 | | 067 | | 068 | | 069 | | 070 | | 071 | | 072 | | 073 | | 074 | | 075 | | 076 | | 077 | | 078 | | 079 | | 080 | | 081 | | 082 | | 083 | | 084 | | 085 | | 086 | | 087 | | 088 | | 089 | | 090 | | 091 | | 092 | | 093 | | 094 | | 095 | | 096 | | 097 | | 098 | | 099 | | 100 | | 101 | | 102 | | 103 | | 104 | | 105 | | 106 | | 107 | | 108 | | 109 | | 110 | | 111 | | 112 | | 113 | | 114 | | 115 | | 116 | | 117 | | 118 | | 119 | | 120 | | 121 | | 122 | | 123 | | 124 | | 125 | | 126 | | 127 | | 128 | | 129 | | 130 | | 131 | | 132 | | 133 | | 134 | | 135 | | 136 | | 137 | | 138 | | 139 | | 140 | | 141 | | 142 | | 143 | | 144 | | 145 | | 146 | | 147 | | 148 | | 149 | | 150 | |


- Thánh Vịnh 069 (068) -

Ai ca

 

1 Phần nhạc trưởng. Theo điệu: Bông huệ... Của Ðavít.

2 Cứu tôi với, lạy Thiên Chúa,

vì nước đã dẫy lên tới họng.

3 Tôi lún xuống bùn sâu hoắm,

mà không còn gì để ghì nín lại.

Tôi sa vào vực nước sâu,

và dòng nước lũ ngút cả đầu tôi.

4 Tôi kêu gào đến kiệt sức, rát cả họng.

Mắt tôi mòn mỏi trông chờ Thiên Chúa.

5 Chúng nhiều hơn những sợi tóc đầu tôi,

những kẻ nhưng không mà ghét tôi,

chúng bộn hơn [lọn tóc trên đầu]

những kẻ thù tôi vô cớ.

Không trộm của người, sao lại đòi tôi phải trả!

6 Lạy Thiên Chúa, tôi có điên rồ hẳn Người biết,

tôi nợ của tôi không thể khuất được với Người!

7 Họ chớ thẹn thuồng vì tôi,

những ai trông cậy vào Người,

lạy Chúa tôi, Yavê thiên binh,

chớ phải xấu hổ vì tôi,

những kẻ tìm kiếm Người,

lạy Thiên Chúa của Israel!

8 Ấy chính vì Người mà tôi bị thóa mạ,

mà ô nhục trùm lên mặt tôi.

9 Tôi nên như người dưng nước lã đối với anh em tôi,

ngay với con cái cùng một mẹ, tôi cũng là khách lạ.

10 Vì lòng nhiệt thành đối với nhà Người

nghiến cả mình tôi, những lời chửi bới

của những kẻ mạ lị Người, đổ xuống trên tôi.

11 Tôi hãm mình ăn chay,

đó cũng là cớ cho họ thóa mạ.

12 Tôi lấy bao bị làm áo,

cũng bị họ đem ra bêu diếu.

13 Họ đàm tiếu về tôi, những kẻ ngồi ngoài Cổng,

và lũ nghiện rượu hát vè chửi tôi.

14 Phần tôi, lời tôi khẩn nguyện lên với Người, lạy Yavê,

vào buổi gia ân, lạy Thiên Chúa,

vì ơn dày nghĩa cả của Người,

xin đáp lại lời tôi,

trong sự thật tế độ của Người.

15 Xin giựt tôi khỏi vũng bùn, kẻo tôi ngụp mất,

cho tôi thoát khỏi kẻ thù, khỏi vực nước sâu.

16 Chớ để vực không đáy dìm nghỉm tôi đi,

và trên tôi miệng giếng ập lại!

17 Xin hãy đáp lại lời tôi, lạy Yavê,

vì ơn Người là ơn từ hậu.

Chiếu theo lòng thương xót hải hà,

xin hãy quay lại cùng tôi.

18 Xin chớ lánh mặt với tôi tá Người,

này tôi lâm bĩ, xin mau đáp lại lời tôi.

19 Xin hãy lại gần mạng tôi, xin bàu chữa nó,

vì các địch thù của tôi, xin chuộc lấy tôi!

20 Người biết tôi chịu thóa mạ,

cùng với thẹn thuồng xấu hổ.

Trước mặt Người đó, những kẻ bách hại tôi hết thảy.

21 Thóa mạ đập vỡ tim tôi vô phương điều trị;

tôi mong có sự phân ưu, song không có,

tìm người an ủi nhưng không gặp!

22 Của ăn tôi, chúng bỏ thuốc độc vào,

tôi khát, chúng cho uống giấm.

23 Cỗ bàn trước mặt chúng hãy nên tròng lưới,

và [tiệc thánh của chúng] thành ra cạm bẫy!

24 Ước gì chúng tối mắt lại hết thấy,

xin cho chúng còng lưng xuống mãi!

25 Trên chúng xin đổ xuống nộ khí của Người,

cho lửa nóng giận của Người cháy lan thấu chúng!

26 Trại chúng hãy thành hoang vu,

lều chúng không còn ai ở!

27 Vì [kẻ] Người đánh, chúng còn bắt bớ,

[kẻ Người sát phạt] đã khổ [chúng lại làm khổ thêm]

28 hãy chất cho chúng hết vạ này đến vạ khác,

khiến chúng không sao thoát án

mà được tuyên công nơi Người.

29 Chúng hãy bị xóa khỏi sách sự sống,

với hàng người công chính, chúng chớ hề được đăng sổ!

30 Còn tôi, khốn khổ và đớn đau,

xin ơn tế độ của Người che chở tôi, lạy Thiên Chúa!

31 Tôi sẽ hát vãn ngợi khen Danh Thiên Chúa,

tôi sẽ tôn dương Người trong lễ tạ ơn,

32 Ðiều ấy sẽ đẹp lòng Yavê hơn tế bò tơ,

hơn ngưu sinh đủ sừng đủ móng!

33 Hạng nghèo hèn thấy và sẽ mừng vui,

những người tìm kiếm Thiên Chúa:

"Chúc lòng các người được sống!"

34 Vì Yavê nhậm lời những kẻ khó nghèo,

bọn tù đày của Người, Người không khinh rẻ.

35 Trời đất hãy ngợi khen Người,

biển cùng những vật nhung nhóc nơi lòng biển hết thảy!

36 Vì Thiên Chúa sẽ tế độ cho Sion,

Người sẽ xây lại các thành Yuđa,

tại đó chúng sẽ an cư lập nghiệp.

37 Ðó là cơ nghiệp của dòng giống tôi tá Người,

đó là nơi nương ngụ của những ai yêu mến Danh Người!

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page