Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Samuel II

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | |


- Chương 22 -

 

Bài ca của Ðavit

1 Ðavit đã nói lên với Yavê lời ca này vào ngày Yavê đã cứu ông khỏi bàn tay các địch thù của ông và khỏi bàn tay Saul. 2 Ông nói:

Yavê là Tảng đá, là đồn trú,

là Ðấng giải thoát tôi, 3 Thiên Chúa của tôi,

là Ðá tảng của tôi, tôi ẩn núp bên Người,

là Thuẫn đỡ là Uy tế độ cho tôi,

là thành trì và là nơi tôi trú ẩn,

là Ðấng cứu tôi, Người cứu tôi khỏi sức bạo cường.

4 Yavê, Ðấng đáng ngợi khen, tôi kêu khẩn Người,

và tôi được thoát khỏi các kẻ thù tôi!

5 Trong khi sóng tử thần bủa vây tôi,

thác ghềnh ma quái làm tôi ghê rợn,

6 tròng của âm phủ rút lại tư bề,

lưới của tử thần phóng ngay trước mặt.

7 Trong nỗi ngặt nghèo tôi kêu đến Yavê,

tôi kêu lên với Thiên Chúa tôi thờ:

từ đền của Người, Người đã nghe tiếng tôi,

và lời tôi kêu cứu đã thấu tai Người

8 Ðất đã lung lay rung chuyển,

nền móng tầng trời lẩy bẩy,

chúng đã rung lên, vì Người thét nộ.

9 Khói phun ra bởi khí nộ của Người,

và tự miệng Người, lửa bốc ra thiêu cháy,

từ nơi Người đỏ rực trào ra.

10 Người đảo nghiêng tầng trời Người xuống,

và dưới chân Người một đám mây đen.

11 Người thăng giá Kêrub, Nguời bay bổng,

Người tỏ hiện trước cánh gió;

12 Người lấy tối tăm bao quanh Người

làm trướng phủ, làm nước tụ, mây trùng điệp;

13 Từ hào quang trước mặt Người,

bốc cháy than hồng.

14 Trên trời Yavê sấm sét

và Thượng đế gióng lên tiếng Người.

15 Người ria tên bắn và đánh tan kẻ thù,

một chớp loà, và Người làm chúng tán loạn.

16 Và đáy biển banh ra,

nền móng vũ trụ phơi bày lộ liễu,

bởi tiếng phát của Yavê,

bởi cuồng phong khí nộ của Người.

17 Trên cao Người chìa (tay ) xuống, Người nhắc tôi lên.

Người kéo tôi ra khỏi dòng nước mênh mông.

18 Người giựt tôi khỏi tay thù cường mạnh,

khỏi những kẻ ghét tôi mạnh thế hơn tôi.

19 Chúng tấn công tôi vào ngày tôi lâm nạn,

Nhưng Yavê là chốn tôi tựa nương,

20 Người đem tôi ra chốn rộng thênh thang,

Người đã giựt thoát tôi, vì Người thương tôi.

21 Và tôi chính trực, Yavê đã xử hậu với tôi.

Tay tôi trong trắng và Người đã trả công tôi,

22 Vì tôi tuân giữ đường lối Yavê,

với Thiên Chúa tôi thờ, tôi không bất nghĩa lìa xa;

23 Mọi phán quyết của Người hằng có trước mặt tôi,

tôi không rời xa các Luật điều Người;

24 với Người, tôi đã trọn một lòng,

và tôi quyết giữ mình sao cho khỏi tội.

25 Yavê đãi ngộ tuỳ theo đức công chính của tôi,

tùy theo sự trong trắng của tôi trước mặt Người.

26 Với kẻ tận nghĩa, Người xử tận nghĩa;

với người thành tâm, Người ở thành tâm

27 Với kẻ trong trắng, Người cũng trắng trong;

với đứa lưu manh, Người cũng tinh ranh.

28 Vì dân nghèo hèn được Người đáp cứu,

và mắt những người ngạo nghễ hết thảy Người cho cụp xuống.

29 Vì chính Người là đèn của tôi, lạy Yavê!

Và cảnh tối tăm của tôi, Yavê sẽ làm nên sáng rực!

30 Dựa vào Người, tôi xông vào toán địch,

dựa vào Thiên Chúa thờ, tôi phóng mình qua luỹ!

31 (Nơi) Thiên Chúa, đường lối của Người trọn hảo,

lời của Yavê được luyện (lò lửa),

Người là thuận đỡ,

cho mọi kẻ ẩn náu bên Người.

32 Vì nào ai là Thiên Chúa ngoài Ðức Yavê,

ai là tảng đá, trừ phi Thiên Chúa ta thờ?

33 Thiên Chúa là nơi trú ngụ hùng tráng cho tôi,

và Người đã khai quang trọn hảo đường lối tôi đi,

34 cho chân tôi lanh tợ hưu nai,

cho tôi đứng vững trên các mỏm cao.

35 Người dạy tôi tham chiến,

và cánh tay tôi trương bắn nỏ đồng.

36 Người ban cho tôi chiếc thuẫn tế độ,

lòng từ hậu của Người làm tôi hưng thịnh,

37 dưới chân, Người cho tôi thênh thang rộng bước,

và gót chân tôi khỏi bị vẹo xiêu.

38 Tôi ruổi theo quân địch, tôi tru diệt chúng,

tôi sẽ không trở về trước khi trừ diệt được chúng,

39 Tôi đã trừ tiệt, đã đánh tan chúng, chúng sẽ không còn trỗi dậy,

chúng đã ngã gục dưới chân tôi.

40 Người lấy hùng tráng thắt lưng tôi cho tôi tham chiến,

Người bắt phiến loan quỵ lụy quyền tôi.

41 Người cho địch thù tôi quay lưng tháo chạy,

và các kẻ ghét tôi, tôi đã tiêu diệt chúng.

42 Chúng kêu cứu , nhưng không người tế độ,

(kêu) lên Yavê, nhưng Người không đáp.

43 Tôi nghiền tán chúng như bụi đất,

tôi chà nát, tôi dẵm đạp chúng như bùn toe ngả đường.

44 Người gỡ tôi khỏi những tranh chấp dân tôi,

Người đặt tôi làm đầu các nước,

dân tôi đã không biết làm nô lệ cho tôi.

45 Giống nòi tha phương ra công tâng nịnh,

tin vừa thấu tai, chúng đã vâng vâng dạ dạ.

46 Giống nòi tha phương giẫy chết,

run lẩy bẩy chúng kéo nhau ra khỏi thành trì.

47 Yavê hằng sống! Ðáng chúc tụng thay, Tảng đá của tôi,

Thiên Chúa, Tảng đá cứu độ cho tôi, ước gì Người được tôn vinh!

48 Lạy Thiên Chúa, Ðấng đã cho tôi rửa hận,

Ðấng đã dẹp các dân dưới (quyền) tôi.

49 Ðấng đem ra tôi khỏi vòng địch,

Người cho tôi hiển dương trên phường dấy loạn,

Người giựt tôi khỏi kẻ bạo tàn.

50 Vì thế lạy Yavê, tôi sẽ ngợi khen Người giữa các dân,

tôi sẽ đàn ca Danh Người,

51 Ðấng đã cho vua Người chọn, hiển vinh thắng trận,

Ðấng xử nhân nghĩa với vị được xức dầu của Người,

với Ðavit và dòng giống ông cho đến muôn đời.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page