Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Các Vua I

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | |


- Chương 08 -

 

Ðem Khám Giao ước vào Ðền Thờ

1 Bấy giờ Salômon truyền cho các kỳ mục Israel, tất cả các đầu mục các chi tộc, các vương công của các gia tộc con cái Israel, hội lại bên vua Salômon, ở Yêrusalem, để kiệu Khám Giao ước của Yavê lên từ Thành của Ðavit, tức là Sion. 2 Mọi người Israel đều đã hội lại bên vua Salômon vào tháng Etanim nhân dịp đại lễ, tức là tháng bảy. 3 Khi toàn thể các kỳ mục Israel đã đến, thì các tư tế khiêng Khám. 4 Và họ kiệu lên: Khám của Yavê, Trướng Tao phùng và tất cả các đồ thánh trong Trướng; chính các tư tế và các Lêvit đã kiệu các đồ ấy lên. 5 Vua Salômon và toàn thể cộng đồng Israel, tề tựu bên ông đằng trước Khám, tế lễ chiên, bò, nhiều không kể xiết hay đếm được. 6 Các tư tế đem Khám Giao ước của Yavê vào chỗ dành (cho Khám) nơi Hậu tẩm của Nhà, tức là cung cực thánh, dưới cánh các Kêrubim, 7 vì các Kêrubim trương cánh bên trên chỗ đặt Khám, và từ bên trên các Kêrubim phủ (cánh) trên Khám và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng dài nên người ta có thể thấy mútđòn từ cung thánh ngay đằng trước Hậu tẩm, nhưng không thấy được từ bên ngoài. Chúng vẫn còn ở đócho đến ngày nay. 9 Trong Khám chỉ có hai tấm bia đá, Môsê đã để vào ở Khoreb, những bia của Giao ướcYavê đã kết với con cái Israel, thời họ ra khỏi đất Aicập.

 

Thiên Chúa chiếm hữu Ðền Thánh

10 Khi các tư tế đã ra khỏi Thánh điện, thì mây xuống đầy Nhà Yavê. 11 Vì có mây nên các tư tế đã không thể đứng lại phụng sự; vì vinh quang Yavê xuống đầy Nhà Yavê.

12 Bấy giờ Salômon nói:

"Vừng thái dương được Yavê định chỗ trên trời,

Yavê đã phán sẽ ở trong đám mây đen.

"13 Vậy mà tôi đã được xây lãnh điện cho Người,

làm tòa Người ngự cho đến muôn đời!

Há trong sách thi calại đã không chép thế ư?"

 

Diễn từ của Salômon

14 Ðoạn vua quay mặt lại và chúc lành cho toàn thể đoàn hội Israel, trong khi toàn thể đoàn hội Israel đứng chầu. 15 Ông nói: "Chúc tụng Yavê Thiên Chúa của Israel, Ðấng đã phán tự miệng Người với Ðavit cha tôi và đã tra tay làm cho nên trọn (điều Người) đã nói: 16 Từ ngày Ta đem dân Ta là Israel ra khỏi Aicập, Ta đã không chọn thành nào trong toàn thể các chi tộc Israel để xây Nhà làm chỗ ở cho Danh Ta ở (...). Nhưng Ta đã chọn Ðavit, để nó cai dân ta là Israel. 17 Và Ðavit cha tôi những hoài bão xây Nhà cho Danh Yavê Thiên Chúa của Israel. 18 Nhưng Yavê phán với Ðavit cha tôi: Bởi ngươi hoài bão xây Nhà cho Danh Ta, ngươi đã làm phải khi ngươi đã hoài bão như thế. 19 Duy có điều là không phải chính ngươi sẽ xây Nhà mà là con ngươi, kẻ sẽ xuất tự sườn ngươi, chính nó sẽ xây Nhà cho Danh Ta. 20 Yavê đã làm ứng nghiệm lời Người đã phán: Tôi đã đứng lên kế vị Ðavit cha tôi và ngồi ngai Israel, theo như Yavê đã phán, và tôi đã xây Nhà cho Danh Yavê Thiên Chúa của Israel. 21 Tôi đã chọn chỗ ở đó cho Khám, trong đó có Giao ước Yavê đã kết với cha ông chúng ta, thuở Người đem họ ra khỏi đất Aicập".

 

Kinh cung hiến Ðền thờ

22 Ðoạn Salômon đứng trước tế đàn của Yavê, trước mặt toàn thể đoàn hội Israel, ông giang tay lên trời 23 và nói: "Yavê, Thiên Chúa của Israel, không có Thiên Chúa nào như Người, nơi trời bên trên hay nơi đất bên dưới, Ðấng giữ Giao ước và ân nghĩa với các tôi tớ Người, khi chúng hết lòng đi trước nhan Người, 24 Ðấng đã giữ lời với tôi tớ Người là Ðavit cha tôi, và (lời) Người đã phán tự miệng Người, Người đã tra tay làm cho nên trọn, ngay ngày hôm nay. 25 Vậy bây giờ, lạy Yavê, Thiên Chúa của Israel, xin hãy giữ với tôi tớ Người là Ðavit, cha tôi, điều Người đã phán, mà rằng: sẽ không tiệt khỏi trước nhan Ta, người của ngươi ngự trên ngai Israel, duy có điều là con ngươi phải coi chừng đường lối chúng, là đi trước nhan Ta như ngươi đã đi trước nhan Ta. 26 Vậy bây giờ, lạy Yavê Thiên Chúa của Israel, ước gì được nên ứng nghiệm lời Người đã phán với tôi tớ Người là Ðavit cha tôi! 27 Họa chăng là Thiên Chúa lại ở dưới đất? Kìa trời và thượng đỉnh tầng trời không tài nào chứa nổi Người, huống hồ là cái Nhà này tôi đã xây lên! 28 Xin Người đoái đến lời khẩn nguyện van xin của tôi tớ Người, lạy Yavê Thiên Chúa của tôi, mà nhậm lời kêu xin khẩn nguyện tôi tớ Người nguyện trước nhan Người hôm nay. 29 Nguyện xin mắt Người mở trên Nhà này đêm ngày, trên chỗ mà Người đã phán: Danh Ta sẽ ở đó! Xin nhậm lời khẩn nguyện tôi tớ Người nguyện trong chốn này.

 

Cầu nguyện cho dân

"30 Xin Người nghe lời tôi tớ Người và dân Israel của Người van xin hướng tới nơi này. Nơi Người ngự, nơi trời (cao): xin Người đoái nghe và tha thứ.

"31 Khi có người nào mắc tội với người đồng loại và bị người ấy đòi phải thề rủa, mà đến thề rủa trước tế đàn của Người nơi Nhà này, 32 thì, xin Người ở trên trời, Người nghe và can thiệp: Người sẽ phân xử cho các tôi tớ Người ở trên trời, và ác giả thì ác báo, Người trả lại trên đầu nó đường ác nó theo; còn thiện giả thì thiện báo, Người trả lại các đức người ta đã làm.

"33 Khi dân Israel của Người bại trận trước mặt kẻ thù, vì chúng có tội với Người; nếu chúng trở lại với Người mà ngợi khen Danh Người, nếu chúng nguyện van xin Người nơi Nhà này, 34 thì xin Người ở trên trời, Người đoái nghe và tha tội cho dân là Israel của Người và đưa chúng về lại nơi thửa đất Người đã ban cho cha ông chúng.

"35 Khi trời đóng lại khiến không có mưa, vì chúng có tội với Người, nếu chúng hướng về nơi này mà khẩn nguyện và ngợi khen Danh Người và bỏ tội lỗi trở lại với Người, vì Người đã hạ chúng xuống, 36 thì xin Người ở trên trời, Người nghe và tha tội cho các tôi tớ của Người, là dân Israel của Người, - Vì Người dạy chúng đường tốt lành chúng phải đi - xin Người ban mưa xuống đất của Người, đất Người đã ban cho dân Người làm cơ nghiệp.

"37 Khi trong xứ có nạn đói, hay ôn dịch, khi có nạn lúa vàng úa hay thối đen, hay châu chấu cào cào, khi có địch thù vây hãm nơi một (trong các) cổng thành nào, hay có bất cứ tai ương, bất cứ bịnh hoạn nào, 38 bất cứ điều gì khiến phải (thốt lên) lời khẩn nguyện van xin, nơi một người nào hay nơi toàn dân Israel của Người, điều mỗi người cảm thấy nơi lòng như họa tai mà giang tay hướng về Nhà này, 39 thì xin Người ở trên trời, nơi tòa Người ngự, Người đoái nghe mà tha thứ và can thiệp: xin Người trả cho mỗi người tùy theo hành vi của nó, vì Người biết lòng nó, và chỉ một mình Người mới biết lòng con người hết thảy, 40 ngõ hầu chúng kính sợ Người mọi ngày sống trên thửa đất Người đã ban cho cha ông chúng tôi.

"41 Và cả người xa lạ không thuộc dân Israel của Người, kẻ tự phương xa mà đến vì Danh Người, 42 bởi người ta đã nghe đồn về Danh lớn lao của Người, và tay mạnh, cánh tay giương của Người, nếu nó đến và hướng về Nhà này mà khẩn nguyện, 43 thì xin Người ở trên trời, nơi tòa Người ngự, xin Người đoái nghe và làm theo mọi điều kẻ lạ kêu lên với Người, ngõ hầu hết thảy các dân thiên hạ được biết Danh Người, mà kính sợ Người, như dân Israel của Người, và biết là Danh Người đã được kêu khẩn trên Nhà tôi đã xây đây.

 

Phụ chương

"44 Khi dân Người xuất chinh giao chiến với địch thù, trên đường Người sai chúng đi, nếu chúng khẩn nguyện, hướng mặt về Thành Người đã chọn và Nhà tôi đã xây cho Danh Người, 45 thì xin Người ở trên trời, xin Người đoái nghe lời chúng khẩn nguyện van xin và thi hành án công minh cho chúng.

"46 Khi chúng có tội với Người - vì không có ai là không có tội - và Người thịnh nộ mà phó nộp chúng cho kẻ thù, để quân giặc bắt chúng đi đày nơi đất nghịch, xa hay gần, 47 nhưng rồi chúng hồi tâm, nơi đất chúng bị đày ải, và trở lại cùng kêu van với Người nơi đất chúng lưu đày, mà rằng: Chúng tôi đã lầm lỗi, đã phạm tội, và làm trái. 48 Vậy nếu chúng trở lại với Người hết lòng, hết linh hồn, nơi đất quân thù đày chúng và khẩn nguyện với Người hướng mặt về đất của chúng, (đất) Người đã ban cho cho ông chúng, - về Thành Người đã chọn và Nhà tôi đã xây cho Danh Người, 49 trên trời, nơi tòa Người ngự, xin Người đoái nghe lời chúng khẩn nguyện van xin, và thi hành án công minh cho chúng, 50 và tha các tội lỗi chúng đã phạm đến Người, và ban cho chúng gặp thấy chạnh thương nơi những người đày ải chúng để họ biết thương xót chúng, 51 vì chúng là dân của Người, cơ nghiệp Người đã đem ra khỏi Aicập, khỏi lò nung sắt.

 

Kết luận

"52 Xin mắt Người mở trên lời van xin của tôi tớ Người, trên lời van xin của dân Người là Israel, để nghe lời chúng, mỗi lần chúng kêu lên với Người, 53 vì chính Người đã tách chúng từ giữa muôn dân cho làm cơ nghiệp của Người, như Người đã phán ngang qua Môsê tôi tớ của Người, khi Người đem cha ông chúng ra khỏi Aicập, lạy Ðức Chúa Yavê!"

54 Khi Salômon đã nguyện xong với Yavê tất cả lời khấn nguyện van xin ấy, thì ông đứng dậy khỏi trước tế đàn Yavê, khỏi nơi ông qùi gối và giương tay lên trời, 55 đoạn ông đứng mà chúc lành cho toàn thể đoàn hội Israel, (cất) lớn tiếng, ông nói: "56 Chúc tụng Yavê, Ðấng đã ban cho dân Người là Israel được an nghỉ, chiếu theo mọi điều Người đã phán. Mọi lời tốt lành Người đã phán ngang qua Môsê tôi tớ của Người, hẳn không một lời nào đã rơi xuống (đất). 57 Ước gì Yavê Thiên Chúa của chúng ta hằng ở với chúng ta, như Người đã ở với cha ông chúng ta! Xin Người đừng bỏ chúng ta, đừng từ rẫy chúng ta, 58 nhưng khấn hướng lòng chúng ta về với Người, cho ta đi theo các đường lối của Người hết thảy, và giữ các lịnh truyền, luật điều, phán quyết Người đã truyền cho cha ông chúng ta. 59 Ước gì các lời này tôi đã van xin lên trước nhan Yavê được ở gần bên Yavê Thiên Chúa của chúng ta ngày đêm, để Người thi hành án công minh cho tôi tớ Người, án công minh cho dân Người là Israel, ngày nào có việc ngày ấy, 60 ngõ hầu mọi dân thiên hạ biết rằng Yavê là chính Thiên Chúa, không còn ai khác, 61 và ngõ hầu các ngươi có một lòng thành đối với Yavê Thiên Chúa của chúng ta, mà đi theo luật điều của Người và giữ các lịnh truyền của Người, như ngày hôm nay".

 

Tế lễ

62 Vua và toàn thể Israel với ông tế lễ hy sinh trước nhan Yavê, 63 Salômon đã tế, làm lễ tế kỳ an dâng tiến Yavê: hai mươi hai ngàn con bò, và một trăm hai mươi ngàn con chiên. Như thế và và toàn thể con cái Israel đã khánh thành Nhà của Yavê. 64 Ngày ấy, vua đã tác thánh khoảng giữa Tiền đình trước Nhà Yavê. Ở đó ông đã dâng thượng hiến, đồ cúng, và dàn mỡ (lễ tế) kỳ an, vì tế đàn bằng đồng trước nhan Yavê quá nhỏ, không thể chứa nổi thượng hiến, đồ cúng, và dàn mỡ (lễ tế) kỳ an. 65 Vào dịp ấy Salômon đã mừng Ðại lễ, và cùng với ông có toàn thể Israel, một đại hội lớn lao, từ đường vào Khamat cho đến Khe Aicập, (đổ về) trước nhan Yavê, Thiên Chúa của chúng ta, bảy ngày trường, và (lại thêm) bảy ngày, (tức là) mười bốn ngày. 66 Ngày thứ tám, ông giải tán dân. Họ đã chúc phúc cho vua và trở về lều của họ, vui mừng, lòng hớn hở vì mọi phúc lành Yavê đã ban cho Ðavit, tôi tớ của Người và cho Israel, dân của Người.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page