Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Nêhêmya

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | |


- Chương 05 -

 

Những khó khăn về mặt xã hội

1 Xảy có lời lên dân và vợ họ, ta thán não nuột về anh em họ, những người Dothái. 2 Có người nói: "Con trai, con gái ch1ung tôi, chúng tôi phải bán đợ để có lúa ăn mà sống!" 3 lại có những kẻ nói: "Chúng tôi phải bán đợ ruộng đất, vườn nho, nhà cửa để có lúa trong thời đói kém". 4 Cũng có những người nói: "Chúng tôi phải cầm thế ruộng đất vườn nho (để) vay bạc nộp thuế cho vua, 5 dẫu rằng chúng tôi (xương) thịt như anh em chúng tôi; con cái chúng tôi có khác gì con cái họ; thế mà kìa chúng tôi phải bắt con trai con gái chúng tôi làm nô lệ; và con gái chúng tôi, có đứa bị hiếp đáp mà chúng tôi đành chịu bó tay, và ruộng đất vườn nho của chúng tôi thì thuộc về người khác".

6 Tôi rất lấy làm phẫn uất khi nghe họ ta thán và (nghe) các lời ấy. 7 Xảy những lo nghĩ, tôi đã quở mắng các thân hào và hàng chức trách, tôi bảo họ: "Các ông đã chất gánh nặng cho nhau, cho những anh em của các ông!" Ðoạn tôi đã triệu tập đại hội. 8 Tôi nói với họ: "Chúng tôi đã phải mua chuộc anh em chúng tôi, những người Dothái bị bán cho dân ngoại; còn các ông, các ông đi bán anh em các ông và họ lại bị bán cho chúng tôi!" Họ đã làm thinh, không kiếm ra được một lời (đáp lại). 9 Tôi lại nói: "Không hay gì điều các ông làm đó. Há các ông lại không phải đi trong sự kính sợ Thiên Chúa của chúng ta để tránh lời sỉ mạ của các dân ngoại thù ghét ta sao? 10 Cả tôi và anh em tôi cùng các binh tráng của tôi, chúng tôi đã cho họ vay bạc và lúa. Vậy chúng ta hãy tha món nợ đó! 11 Ngay hôm nay, các ông hãy hoàn lại cho họ ruộng đất, vườn nho, vườn dầu và nhà cửa họ, và tha cho họ món nợ bạc, lúa, rượu, dầu các ông đã cho họ vay". 12 Họ đã nói: "Chúng tôi xin hoàn lại và sẽ không đòi gì sốt; chúng tôi sẽ làm theo điều ông vừa nói". Tôi liền cho gọi các tư tế đến và bắt họ thề phải làm như lời họ nói. 13 Tôi cũng đã rũ vạt áo mà nói: "Thiên Chúa sẽ rũ thế này bất cứ người nào không giữ lời thề, (cho tan hoang) nhà cửa công lao nó! Cũng như thế này, nó sẽ bị rũ sạch, trống không!" Và toàn thể đại hội thưa: "Amen!" Ðoạn người ta ngợi khen Yavê. Và dân đã thi hành theo lời đã nói.

14 Hơn nữa, từ ngày tôi được lệnh làm tổng trấn trong xứ Yuđa - từ năm hai mươi đến năm ba mươi hai đời vua Artaxerxes, trong vòng mười hai năm, tôi và anh em tôi đã không ăn lương bổng tổng trấn. 15 Những tổng trấn đầu tiên trước tôi đã áp bức dân, mỗi ngày lấy bánh rượu, bốn mươi seqel bạc; đinh tráng của họ lộng hành trên dân. Tôi đã không làm thế vì lòng kính sợ Thiên Chúa.

16 Tôi cũng đã tra tay vào việc tu bổ tường thành; ruộng đất tôi không tậu, và tất cả các đinh tráng của tôi đều có mặt ở đây mà làm việc.

17 Các thân hào và hàng chức trách nơi bàn tôi là một trăm năm mươi người, lại thêm những người từ các dân xung quanh đến. 18 Và những gì phải hạ mỗi ngày - một bò,s áu cừu chọn lọc, với gà vịt - tôi đều đãi thọ; và cứ mười ngày, (thêm) những vò rượu đầy dư dật. Dẫu thế, tôi cũng đã không đòi lương bổng tổng trấn, vì việc phục dịch đã nặng rồi trên dân này.

19 Xin nhớ đến tôi, lạy Thiên Chúa của tôi, mà giáng phúc cho tôi, cho tôi được phúc mọi điều tôi đã làm cho dân này.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page