Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Nêhêmya

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | |


- Chương 02 -

 

1 Xảy ra là vào tháng Nisan, năm thứ hai mươi đời vua Artaxerxes, tôi phải hầu rượu, nên tôi nâng rượu vào tiến vua. [Xưa nay] tôi không hề buồn rầu. 2 Nên vua mới nói với tôi: "Sao mặt khanh rầu rầu thế? Khanh có đau ốm gì đâu? Phải chăng chỉ vì lòng buồn mà thôi?" Và tôi sợ quá sức. 3 Và tôi thưa với vua: "Ðức Vua! vạn tuế! Mặt thần không buồn sao được, khi mà thành, nơi có mồ của tổ tiên thần đã ra hoang tàn và các cổng đã bị lửa thiêu?" 4 Vua nói với tôi: "Vậy khanh ước nguyện điều gì?" Tôi liền khẩn nguyện Thiên Chúa trên trời. 5 Ðoạn tôi thưa với vua: "Nếu đẹp lòng Ðức Vua và nếu bầy tôi của ngài được vừa ý ngài, (thì xin) ngài sai thần đi Yuđa, đến thành có phần mộ của tổ tiên thần để thần xây dựng lại". 6 Vua lại nói với tôi - bấy giờ có thái phi ngồi bên cạnh vua - "Hành trình của khanh kéo dài bao lâu? Bao giờ khanh sẽ trở về lại đây?" Vua đã ưng ý cho phép tôi đi, và tôi da94 giao hạn với vua. 7 Tôi thưa với vua: "Nếu Ðức Vua xét là phải, thì xin để người ta cấp cho thần chiếu thư đến với các tổng trấn vùng Bên-kia-Sông, ngõ hầu họ để thần ngang qua cho đến khi tới được Yuđa, 8 và một chiếu thư cho Asaph, viên cai ngự uyển hầu ông cấp cho thần, gỗ để thưng các cổng ven Ðền thờ, gỗ cho tường thành, và cho ngôi nhà thần sẽ đến ở". Vua đã ban cho tôi tất cả, vì có tay nhân lành của Thiên Chúa trên tôi.

9 Tôi đã đến với các tổng trấn vùng Bên-kia-Sông và trình chiếu thư của vua cho họ. Vua cũng đã sai quan binh và kị mã đi hộ tống tôi.

10 Samballat, người Khôrôni, và Tôbiya, người bầy tôi gốc Ammon nghe biết thì chúng rất lấy làm tức tối, bởi có người đến mưu hạnh phúc cho con cái Israel.

 

Quyết định xây tường thành

11 Ðến Yêrusalem tôi đã ở đó (chừng) ba ngày, 12 đoạn tôi chỗi dậy ban đêm, tôi và ít người đi với tôi, nhưng tôi không báo cho người nào biết điều Thiên Chúa của tôi đã giục lòng tôi làm cho Yêrusalem. Tôi không đem theo tôi con vật nào ngoại trừ con vật tôi cỡi. 13 Tôi ra nơi Cổng thung lũng ban đêm, (qua) trước mặt Giếng Rồng, rồi đến Cổng-Rác; tôi thị sát tường thành Yêrusalem: đều hủng hê những lỗ và các cổng thì bị lửa thiêu. 14 Tôi qua Cổng-Giếng, Bể-Vua, thì không còn chỗ cho con vật tôi cỡi qua nữa.

15 Nên dọc theo khe, tôi cứ đi lên ban đêm và thị sát tường thành; đoạn tôi quay lại phía Cổng thung lũng mà về. 16 Các nhà chức trách không biết tôi tôi đã đi đâu và làm gì. Cho đến bấy giờ tôi vẫn chưa báo cho người Dothái, hàng tư tế, các thân hào, các nhà chức trách và những ai có chức vụ biết một điều gì. 17 Bấy giờ tôi nói với họ: "Các ông thấy cảnh khốn nạn ta đã lâm phải, vì Yêrusalem đã ra hoang tàn, các cổng bị lửa thiêu. Ði nào! Ta hãy xây lại tường Yêrusalem. Ðừng để mình mang nhục như thế nữa!"

18 Tôi báo cho họ biết là có tay nhân lành Thiên Chúa của tôi trên tôi, một trật (tôi báo cả) những lời vua đã nói với tôi. Họ liền nói: "Ta hãy chỗi dậy mà xây đi!" Và họ đã mạnh mẽ tra tay vào việc tốt lành ấy.

19 Sanballat, người Khôrôni, Tôbiya tên bầy tôi gốc Ammon và Geshem người árập nghe tin thì nhạo cười khinh mạt chúng tôi. Chúng nói: "Chúng bay làm gì đó? Dễ chừng chúng bay muốn làm loạn với Ðức Vua sao?" 20 Và tôi trả lời cho họ và bảo họ: "Thiên Chúa trên trời sẽ ban cho chúng tôi được may mắn thành công; và chúng tôi, tôi tớ của Người, chúng tôi sẽ chỗi dậy xây cất. Còn các ông, các ông không có phần nào, hay quyền lợi hay kỷ niệm gì ở Yêrusalem".

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page