Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Huấn Ca

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | | 25 | | 26 | | 27 | | 28 | | 29 | | 30 | | 31 | | 32 | | 33 | | 34 | | 35 | | 36 | | 37 | | 38 | | 39 | | 40 | | 41 | | 42 | | 43 | | 44 | | 45 | | 46 | | 47 | | 48 | | 49 | | 50 | | 51 | |


- Chương 21 -

 

Các tội khác

1 Hỡi con, đã phạm tội ư? Con đừng làm thế nữa!

vì tội đã phạm, hãy cầu xin!

2 Hãy lánh tội, như tránh rắn,

vì nếu lại gần, nó sẽ cắn con.

Răng nó, thật nanh sư tử,

chúng lấy mạng con như (chơi).

3 Mọi điều phi pháp thật là gươm hai lưỡi,

vết thương của nó vô phương điều trị.

4 Hung hãn tàn bạo phá phách đền đài,

nhà kẻ kiêu ngạo sẽ bị lật đổ.

5 Lời kẻ nghèo khó kêu xin vừa lọt miệng đã thấu tai Chúa,

và án xử của Người vội vàng đi đến.

6 Ghét sửa lỗi, dấu chỉ tội nhân,

ai kính sợ Chúa thời qui vào lòng.

7 Người khôn ngoan biết có gì trước mặt,

thoáng trông đã nhận ra sự dữ.

8 Lấy của người ta xây nhà của mình,

khác gì chất đá xây mả cho mình.

9 Hội đoàn của lũ phi pháp một nắm xơ gai,

ngọn hỏa tai là vận cùng của chúng.

10 Ðường lối tội lỗi phẳng lì nhẵn đá,

nhưng mút cùng là hố sâu âm phủ.

 

Kẻ khôn người ngu

11 Ai giữ luật thì hãm cầm dục vọng,

trọn lành tối hậu là kính sợ Chúa.

12 Thiếu linh lợi, thiếu cả giáo dục,

nhưng có thứ linh lợi chỉ là ngụy tặc.

13 Tri thức của người khôn ngoan tràn lan như nước lụt,

cao kiến của người như mạch nước sống.

14 Tâm địa người ngu như bể nẻ,

nó không giữ được mảy may tri thức.

15 Người thông minh nghe được lời khôn,

ắt tán thưởng và còn thêm lẽ khác.

Kẻ nhạo báng nghe được thì chế diễu,

và quăng liền sau lưng.

16 Lời lẽ kẻ ngu như gánh nặng trên đường,

nhưng đượm duyên thắm môi miếng người thông.

17 Trong đám hội, mong tìm gặp miệng bậc hiền minh,

lời người nói, ai ai cũng để tâm suy nghĩ.

18 Ðối với người ngu, khôn ngoan như ngục thất,

và tri thức là tù đối với người vô trí.

19 Ðối với kẻ ngu dại, giáo huấn là xiềng nơi chân,

là còn nơi tay phải.

20 Kẻ ngu thì cười, oang oang lên tiếng,

người lương tri bất quá âm thầm mỉm miệng.

21 Ðối với người biết suy, giáo huấn ví thể kim hoàn,

như xuyến vàng đeo tay phải.

22 Chân kẻ ngu xồng xộc vào nhà,

người lịch lãm, con mắt nhìn xuống.

23 Kẻ xuẩn độn ngoài cửa nhìn thọc vào nhà,

kẻ gia giáo đứng dừng ngoài ngõ.

24 Nghe ngoài cửa một tật mất dạy,

lương tri tất bịt tai.

25 Miệng người kiêu ngạo nói nói hung hăng,

lời của người lương tri đã đặt lên cân

26 Lòng kẻ ngu ở cả nơi mồm nó,

miệng người khôn ở nơi lòng họ.

27 Khi kẻ vô đạo, rủa người vô can với nó,

nó rủa chính mình.

28 Kẻ mách lẻo bôi nhọ chính mình,

bất kỳ ở đâu, ai cũng ghét.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page