Kinh Thánh Cựu Ước

Baruk

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | |


- Chương 06 -

 

1 Vì tội các ngươi đã phạm chống lại Thiên Chúa, các ngươi sẽ bị Nabucôđônôsor, vua người Babylon, dẫn đi đày ở Babylon. 2 Một khi tới Babylon, các ngươi sẽ ở đó nhiều năm và một thời gian lâu dài, đến bảy đời; nhưng sau đó, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi đó bình an. 3 Và các ngươi sẽ thấy tại Babylon, các thần bằng bạc, bằng vàng và bằng gỗ, người ta khiêng trên vai và gây sợ hãi nơi các dân tộc. 4 Vậy, hãy coi chừng! Các ngươi chớ có nên giống những người tha bang, và sự sợ hãi chớ xâm chiếm các ngươi về vấn đề các thần ấy, 5 khi các ngươi thấy, trước và sau chúng, đoàn lũ tôn thờ chúng. Nhưng hãy nói trong lòng các ngươi rằng: "Phải tôn thờ chính Người, lạy Thầy". 6 Bởi vì thần sứ của Ta ở với các ngươi: Chính ngài sẽ quan tâm tới sinh mạng của các ngươi.

7 Bởi vì lưỡi của các (thần) này đã được một thợ thủ công đánh bóng; chúng đã được dát bằng vàng và bạc, nhưng chúng chỉ là ảo huyền và không thể nói năng. 8 Như cho một người trinh nữ thích trang sức, người ta lấy vàng và làm những triều thiên đặt trên đầu các thần của họ. 9 Ðôi khi các tư tế lấy trộm của các thần của họ, vàng và bạc để tiêu riêng; họ còn đem cho cả bọn đĩ điếm ở sân lộ thiên. 10 Họ mặc cho các thần bằng bạc, bằng vàng và bằng gỗ ấy quần áo như người phàm; nhưng chúng lại không thể chống trả lại được với ten sét, mối mọt, 11 mặc dù chiếc áo đỏ thắm người ta mặc cho chúng. người ta lau mặt chúng vì bụi bặm đền thờ bám trên chúng. 12 Vị này cầm một vương trượng như một ông thống đốc, nhưng lại không thể làm hại kẻ xúc phạm đến mình; 13 vị khác cầm nơi tay mặt thanh gươm và cái rìu, nhưng lại không thể chống trả lại được với chiến tranh và kẻ cướp. 14 Bởi đó mà rõ ràng đây không phải là các thần: Các ngươi chớ sợ chúng.

15 Như một cái bình ngươì ta sử dụng trở nên vô dụng một khi bị bể, các thần của họ cũng vậy. 16 Vừa mới đặt trong các đền thờ, mắt của chúng đã đầy bụi bặm do bàn chân của kẻ (ra) vào khuấy lên. 17 Cũng như người ta đóng cửa tứ phía nhốt một người đã xúc phạm đến vua và sẽ điệu đi giết, cũng vậy, các tư tế tăng cường các đền thờ của các thần này với cửa, với chốt và then cài vì sợ kẻ cướp đánh cướp. 18 Họ thắp đèn, - và con số lớn là cho chính chúng - trong khi chỉ một cái đèn thôi, các thần ấy cũng không thể thấy. 19 Chúng như một trong các tai cột của đền thờ mà người ta nói rằng bên trong đã bị mọt ăn; mọt từ đất ăn chúng, cả quần áo của chúng mà chúng không cảm thấy. 20 mặt chúng đã bị khói từ đền thờ bốc lên hun đen. 21 Dơi, nhạn và các thứ chim khác bay lượn trên mình và trên đầu chúng. Ở đó cũng có cả mèo. 22 Bởi vậy các ngươi sẽ thấy đây không phải là các thần: Các ngươi chớ sợ chúng.

23 Vàng người ta dát lên chúng phải làm chúng đẹp; nhưng nếu không có ai chùi vết mờ, thì chính chúng cũng không làm cho nó bóng được, bởi vì ngay cả khi người ta đúc chúng, chúng cũng đã chẳng cảm thấy gì. 24 Với giá nào người ta cũng mua được chúng và chẳng có một làn khí nào nơi chúng! 25 Bởi chúng không có chân, nên chúng được kênh trên vai, dơ ra cho người đời sự ô nhục của chúng và những kẻ phục vụ chúng cũng phải đỏ mặt, bởi vì nếu các thần này té xuống đất thì chính họ phải nâng chúng dậy. 26 Người ta có đặt chúng đứng, chúng cũng không thể tự mình cử động; chúng có nghiêng đổ, chúng cũng chẳng chỗi dậy được; người ta dâng cho chúng lễ vật như dâng cho người chết. 27 Vật được tế lễ cho chúng, các tư tế của chúng bán đi và kiếm lời; cũng vậy, vợ họ ướp muối một phần mà chẳng phân phát cho người nghèo và người tàn tật. Người đàn bà mắc uế và người đàn bà ở cữ dám đụng đến vật được tế lễ cho các thần ấy. 28 Vậy qua tất cả những cái đó, biết được rằng đây không phải là các thần, các ngươi chớ sợ chúng!

29 Thật vậy, làm sao có thể gọi chúng là thần? Bởi vì chính đàn bà phụ nữ đã dâng các lễ vật cho các thần bằng bạc, bằng vàng và bằng gỗ? 30 Trong các đền thờ của chúng, các tư tế ngồi, áo bị xé rách, đầu và râu cạo đi, và đầu để trần. 31 Họ rống lên và kêu gào trước các thần của họ như một số người làm trong bữa ăn tang ma. 32 Các tư tế lấy áo xống của các thần của họ mà mặc cho vợ và cho con họ. 33 Có ai làm ơn hay gây họa cho chúng, chúng cũng chẳng báo trả được; chúng cũng chẳng có thể đặt lên ngôi hoặc hạ bệ một ông vua, 34 và cũng chẳng có thể ban giàu sang hoặc bạc tiền. Có ai dâng một lời khấn mà không giữ, chúng cũng chẳng hạch hỏi. 35 Chúng không thể cứu một người khỏi cái chết, hay giựt kẻ yếu thế khỏi (tay) kẻ cường mạnh, 36 đem lại thị giác cho một người mù, giải thoát một người trong cơn cùng quẫn; 37 chúng sẽ không xót thương người góa bụa và cũng chẳng làm ích cho kẻ mồ côi. 38 Chúng giống như đá lấy từ núi ra, như những khúc gỗ dát vàng và bạc; và những kẻ phục vụ chúng phải xấu hổ. 39 Vậy làm sao người ta có thể nghĩ hay nói rằng đó đích thực là các thần?

40 Hơn nữa, chính người Kanđu làm nhục chúng; khi thấy một người câm không thể nói được, họ đem đến cho (thần) Bel và kêu xin cho nó nói được như thể vị thần có thể hiểu được; 41 và họ không thể suy nghĩ trên việc đó và từ bỏ các (thần) ấy, bởi vì họ không hiểu. 42 Ðàn bà, chít dây, ngồi trên đường đốt cám như đốt hương; 43 khi một đứa, được khách qua đàng nào đó chiêu mộ, đã ngủ với nó, nó trách bạn nó là không được vinh dự như nó và không được thấy dây của mình được giựt đứt. 44 Tất cả những gì làm cho chúng là ảo huyền. Vậy làm sao người ta có thể nghĩ hoặc nói rằng đó đích thực là các thần?

45 Chúng do tay thợ mộc, thợ kim hoàn làm ra; chúng không thể trở thành gì khác ngoài điều các người thợ ấy muốn chúng trở thành. 46 Những kẻ làm ra chúng sẽ chẳng sống lâu; làm sao những thứ do họ nắn ra lại có thể là những vị thần: 47 Bởi chúng chỉ để lại ảo huyền và hổ nhục cho dòng dõi chúng. 48 Xảy có chiến tranh hay tai họa, các tư tế bàn nhau để biết phải ẩn núp cùng với chúng ở đâu. 49 Vậy làm sao không hiểu rằng đây không phải là các thần, chúng không tự mình giải cứu mình khỏi chiến tranh hay tai họa? 50 Những khúc gỗ này, dát vàng hoặc bạc, sau này người ta sẽ nhận ra chúng chỉ là ảo huyền; đối với mọi dân tộc và mọi vua chúa hiển nhiên đó không phải là các thần, mà là những công trình do tay người, và nơi chúng chẳng có hành động thần thánh nào. 51 Vậy ai còn không rõ rằng đó không phải là các thần?

52 Bởi chúng chẳng có thể thiết lập một vua trong một nước, hay ban mưa móc cho con người, 53 hay phân xử chính công việc của chúng, hay giải thoát kẻ chịu bất công bởi vì chúng bất lực; quả thực, chúng như là những con quạ đứng giữa trời và đất. 54 Phải, lửa có rơi xuống đền thờ của các thần bằng gỗ dát vàng hay bạc này, các tư tế của chúng sẽ bỏ chạy và sẽ thoát nạn, trong khi chúng sẽ bị cháy thiêu trong ngọn lửa như các cây cột. 55 Chúng không thể cự lại một vua hay địch thù. 56 Vậy làm sao chấp nhận hay nghĩ rằng đó là các thần!

57 Chúng không thể thoát khỏi (tay) kẻ cướp, những thần bằng gỗ dát bạc và vàng ấy; những kẻ mạnh có thể giựt vàng và bạc của chúng và ra đi với áo xống mặc cho chúng mà chúng chẳng có thể tự cứu lấy mình. 58 Bởi vậy, thà làm một ông vua giương oai hay một cái bình có ích được chủ sử dụng, còn hơn làm các vị thần giả này, hay làm một cái cửa trong một ngôi nhà, bảo vệ những gì có trong nhà còn hơn làm các vị thần giả này, hay làm một cái cột bằng gỗ trong một lâu đài vua còn hơn làm các thần giả này. 59 Mặt trời, mặt trăng và các tinh tú chiếu sáng và được ủy thác một nhiệm vụ, (chúng) biết vâng lời; 60 cũng vậy, chớp loé lên làm đẹp con mắt; cũng thế, gió thổi khắp xứ; 61 mây, khi Thiên Chúa truyền cho chúng rảo khắp đất, thi hành điều đã ấn định; lửa cũng vậy, khi được phái từ trên cao xuống để thiêu đốt núi và rừng, thực thi điều đã được ban truyền. 62 Nhưng chúng chẳng thể ví được với các thứ ấy về vẻ đẹp hay về sức mạnh. 63 Do đó không thể nói hay nghĩ rằng đó đích thực là các thần, bởi chúng chẳng có thể đem lại công bằng và làm điều tốt lành cho người ta. 64 Biết rằng đó không phải là các thần, chớ có sợ chúng!

65 Bởi chúng chẳng có thể nguyền rủa hay chúc lành cho các vua, 66 hay chỉ các dấu lạ trên trời cho các dân tộc; chúng chẳng chiếu sáng như mặt trời hay soi sáng như mặt trăng. 67 Súc vật có giá trị hơn chúng, bởi vì chúng có thể chạy vào một chỗ ẩn núp và tự giải cứu lấy mình. 68 Bởi vậy, đối với chúng ta, rõ ràng chúng không phải là các thần; do đó chớ có sợ chúng!

69 Quả thật, như một cái bù nhìn trong một thửa ruộng dưa chuột chẳng bảo vệ được gì, cũng vậy, các thần bằng gỗ dát vàng và bạc của họ. 70 Hoặc là, các vị thần bằng gỗ dát vàng và bạc của họ giống như một bụi gai trong một thửa vườn, trên đó mọi thứ chim đều đậu, hay như một kẻ chết ném vào bóng tối. 71 Bởi vải điều và vải gai mục nát trên chúng, và các bạn sẽ thấy chúng không phải là các thần. Cuối cùng chính chúng cũng sẽ bị đục khoét và trở thành một mối ô nhục trong xứ. 72 Tốt hơn nên làm người chính trực, không có thần tượng; người ấy sẽ thoát khỏi nỗi ô nhục.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page