Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Yob

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | | 25 | | 26 | | 27 | | 28 | | 29 | | 30 | | 31 | | 32 | | 33 | | 34 | | 35 | | 36 | | 37 | | 38 | | 39 | | 40 | | 41 | | 42 | |


- Chương 29 -

 

5- Kết Luận Cuộc Ðối Thoại

 

Than vãn và bào chữa của Yob

a) Luyến tiếc chuỗi ngày xưa

1 Yob tiếp tục đọc bài thơ của mình và nói:

2 Ai sẽ làm tôi sống lại những tháng xa xưa,

những ngày tôi được Thiên Chúa chăm sóc,

3 khi đèn của Người soi trên đầu tôi,

và trong đêm tối tôi bước đi dưới ánh sáng của Người;

4 như thuở tôi sống những ngày của mùa thu tôi,

khi Thiên Chúa chở che lều tôi ở,

5 khi Shađđay còn ở với tôi

khi các con trai tôi còn kề bên cạnh,

6 Khi chân tôi còn dầm trong trong sữa dậy men

và khi đá còn tuôn cho tôi những suối dầu.

7 Khi tôi tiến ra Cổng, gần thành,

và đặt chỗ ngồi nơi công cộng.

8 Khi thấy tôi, người trẻ lẫn trốn,

và người già chỗi dậy.

9 Hàng đầu mục ngừng nói

và lấy tay che miệng.

10 Hàng vương công im bặt,

lưỡi chúng dính chặt nơi khẩu cái.

21 Họ nghe tôi và im lặng,

họ đợi chờ tôi cho ý kiến.

22 Tôi dứt lời, họ chẳng cãi lại,

và lời tôi nhỏ giọt trên họ;

23 họ chờ đợi tôi như người ta chờ đợi cơn mưa,

họ há hốc miệng như mong mỏi mưa rào mùa xuân,

24 tôi có mỉm cười với họ, họ không dám tin,

và từ ánh sáng của mặt tôi, họ chẳng bỏ sót gì.

25 Tôi ấn định cho họ đường lối và ngự trị trên đầu họ,

như một vị vua giữa đạo quân của mình,

và đưa họ đi mọi nơi như tôi muốn.

11 Phải, lỗ tai nghe tôi cao rao là tôi hạnh phúc

và mắt thấy tôi làm chứng cho tôi.

12 Bởi vì tôi cứu vớt người nghèo nàn kêu cứu,

và kẻ mồ côi không nơi nương tựa.

13 Chúc lành của kẻ hấp hối đến trên tôi,

và tôi làm nẩy tiếng hoan vui trong lòng góa phụ.

14 Tôi mặc lấy chính trực, đó là y phục của tôi.

Lẽ công bình nơi tôi, làm áo choàng và vương miện.

15 Tôi là mắt của người mù,

và chân của kẻ què, chính là tôi.

16 Tôi là cha của kẻ túng quẫn,

và tôi cứu xét quyền lợi của người không quen biết.

17 Tôi bẻ gãy nanh vuốt kẻ bất chính

và giật con mồi khỏi hàm răng của nó.

18 Và tôi nói: "Khi tôi thở hơi cuối cùng trong ổ của tôi,

như chim phượng hoàng, tôi sẽ gia tăng ngày đời tôi.

19 Rễ của tôi ăn ra thấu nước,

và sương qua đêm trên tán lá của tôi.

20 Vinh quang nơi tôi sẽ luôn mới mẻ,

và trong cánh tay tôi, chiếc cung lấy lại sức mạnh".

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page