Diễn văn
của ÐTC nói về một số vấn
đề thế giới trong năm 1997
Bình luận về diễn
văn của ÐTC về thế giới
trong năm 1997
ÐTC tiếp Ngoại Giao Ðoàn cạnh Tòa Thánh đến chúc mừng Năm mói 1998.
Lúc 11 giờ sáng thứ Bẩy, 10.01.1998, tại Phòng Khánh Tiết (Sala Regia) trong Ðền Vatican, với sự hiện diện của Ðức Hồng Y Angelo Sodano, Quốc Vụ Khanh, Ðức Tổng Giám Mục Giovanni Battista Re, Phó Quốc Vụ Khanh và Ðức Tổng Giám Mục Jean Louis Tauran, Ngoại Trưởng Tòa Thánh, ÐTC Gioan Phaolô II đã tiếp Ngoại Giao Ðoàn cạnh Tòa Thánh đến chúc mừng Năm mới 1998.
Sau những lời chúc mừng của Ðại sứ Cộng Hòa Dân Chủ Congo, Tiến sĩ Atembina Te Bombo, Niên Trưởng Ngoại Giao Ðoàn cạnh Tòa Thánh, ÐTC đọc diễn văn dài bằng tiếng Pháp (tiếng Ngoại giao của Tòa Thánh) nói về tình hình và về một số vấn đề quan trọng thế giới trong năm vừa qua.
ÐTC lưu ý các nhà ngoại giao về những tình hình hiện nay trong bối cảnh quốc tế, từ Châu này qua Châu khác. Về Châu Âu , ÐTC nhắc riêng đến miền Trung và Ðông Âu: những quốc gia vừa thoát chế độ độc tài cộng sản, hiện đang tiến đến nền dân chủ và ngài cầu chúc những tiến bộ và thành công khắp nơi. Riêng về Bosnia-Erzegovina, ÐTC nhấn mạnh đến tính cách bấp bênh của tiến trình hòa bình giữa các sắc tộc khác nhau. Ngài mời gọi Cộng đồng quốc tế tiếp tục các nỗ lực để giúp đỡ người tị nạn trở về nhà cửa, làng mạc của họ và cổ võ việc tôn trọng các quyền căn bản của ba cộng đồng sắc tộc làm thành cộng đồng quốc gia này. Vẫn tại Châu Âu, ÐTC Gioan Phaolô II khuyến khích việc đối thoại giữa các phe tranh chấp tại Bắc Ái Liên (Ái Nhỉ Lan), từ nhiều năm chống đối nhau.
Nhìn về Châu Mỹ Latinh, việc dân chủ hóa vẫn tiến hành, dù còn có những cản trở trong miền Chiapas bên Mehico. ÐTC nhắc đến cách riêng chuyến viếng thăm Cuba: "đây không những chỉ là cơ hội củng cố đức tin các người Công Giáo Cuba, nhưng còn khuyến khích tất cả người dân trong nỗ lực kiến thiết quốc gia trong công bình và đầy tình liên đới hơn", trong đó mỗi một người dân tìm được địa vị của mình và được công nhận trong các nguyện vọng chính đáng của họ.
Quay sang Châu Á, ÐTC bày tỏ vui mừng vì cuộc đàm phán giữa hai miền Bắc và Nam Hàn tại Genève. Những thành công của cuộc đàm phán này sẽ làm giảm bớt các căng thẳng trong cả vùng. Rồi ngài nhắc đến "cơn khủng hoảng tài chánh" đang gây lo lắng cho một sôá quốc gia miền này. Cơn khủng hoảng này nhắc lại cho mọi người suy tư cách nghiêm chỉnh về tính cách luân lý của việc trao đổi kinh tế và tài chánh. Sau đó, ÐTC đã nhắc đến Trung Quốc với những lời như sau: "Tôi không cần nhấn mạnh đến sự kiện này là tôi và các vị cộng tác của tôi theo dõi những diễn biến của tình hình tại Trung Quốc, vừa ước mong Trung Quốc tái lập quan hệ bình thường với Tòa Thánh. Như vậy các người Công Giáo Trung Quốc được hòa hợp đầy đủ với Giáo hội hoàn cầu trên con đường tiến về Ðại Toàn Xá của Năm 2000". Về Việt Nam, ÐTC đã nói như sau: "Nhưng tôi cũng nghĩ đến Giáo Hội tại Việt Nam và Giáo Hội này luôn luôn ước muốn có những điều kiện của cuộc sống tốt đẹp hơn". Sau đó ÐTC nhắc đến miền Ðông Ðảo Timor: các người Công Giáo tại đây đang chờ đợi một cuộc sống hòa bình hơn. ÐTC chào thăm cách riêng Cộng Hòa Mông Cổ hiện đã ước mong thiết lập mối quan hệ chặt chẽ hơn với Tòa Thánh.
Trở lại miền Trung Ðông, ÐTC nhắc lại rằng: hòa bình xem ra còn xa xôi và tiến trình hòa bình đã được khởi sự từ Madrid năm 1991, thì nay như bị đình lại. Những nguyên tắc của Hội nghị Madrid và những đường hướng tại Hội nghị Oslo năm 1993, đã mở con đường tiến đến hòa bình. Ngày nay các nguyên tắc và đường hướng này vẫn còn giá trị để tiến thêm nữa. Vì thế không cần phải mạo hiểm trên những con đường khác. Toà Thánh sẽ tiếp tục đối thoại với mọi phe liên hệ với mục đích cổ võ cả hai bên bảo vệ hòa bình và hàn gắn những vết thương của bất công. Trong những năm chuẩn bị Năm Ðại Toàn Xá 2000 này, ÐTC xin mọi người nhìn về Giêrusalem. Ngài ước mong Thành thánh này trở nên tức khắc và mãi mãi, như Belem và Nagiaret, nơi của công lý và hòa bình, nơi đây người Do thái, Tín hữu Kitô và Hồi Giáo có thể đồng hành với nhau, dưới nhan Thiên Chúa. Cũng tại miền Trung Ðông, ÐTC nhắc lại lệnh cấm vận hiện đang gây khổ cực cho người dân Irak, và đã nói như sau: "Tôi phải kêu gọi lương tâm của những ai ở Irak hay ở nơi khác, đừng đặt những suy tính chính trị, kinh tế hay chiến lược, lên trên sự sống của người dân và tôi xin họ hãy biểu lộ dấu hiệu thương xót. Những người yếu hèn, những người vô tội không phải trả giá thay những người có trách nhiệm". ÐTC không quên nhắc đến thảm cảnh của người dân Curdes, bị sống trong tình trạng "vô Tổ quốc", đang tìm nơi sinh sống cho mình và gia đình.
Nói đến Châu Phi, nơi có nhiều vấn đề sôi bỏng, trước hết ÐTC nhắc đến Algérie, nơi đây hằng ngày xẩy ra những vụ sát hại dân lành; Algérie là "một xứ sở con tin" của những bạo hành vô nhân đạo, không một lý do nào: chính trị hay tôn giáo... biện minh cho những hành động như vậy. ÐTC nhấn mạnh rằng: mọi người thiện chí trong cũng như ngoài nước hiệp nhất với nhau để làm cho tiếng nói của biết bao người còn tin tưởng vào đối thoại và tình huynh đệ được lắng nghe. Về Sudan, tình hình tại đây không cho phép nói đến hòa giải và hòa bình. Các tín hữu Kitô tiếp tục bị kỳ thị. Tòa Thánh đã lưu ý nhiều lần Nhà Cầm quyền địa phương, nhưng tiếc thay không có một thay đổi nào đáng kể (Ðại sứ Sudan hiện diện trong buổi tiếp kiến này, vì Sudan có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh). Tại miền Trung Châu Phi số phận người dân gây nên nhiều lo lắng. ÐTC nói: "Ðứng trước những tình hình như vậy, không một người nào có thể an tâm. Cả lúc này nữa trong im lặng mỗi ngày mỗi thêm, người ta tiếp tục đe đọa, khủng bố, sát hại. Vì thế, tôi muốn kêu gọi các vị trách nhiệm chính trị của các nước (Rwanda, Burundi, Cộng Hòa dân chủ Congo và Congo Brazaville) để nói với các vị này rằng: nếu việc chiếm quyền bằng vũ lực trở nên như luật lệ, nếu chính thể chủng tộc tiếp tục thống trị, nếu nền dân chủ bị loại ra ngoài vòng, nếu nạn tham những và việc buôn bán vũ khí hoành hành, thì Châu Phi sẽ không bao giờ biết đến hòa bình, phát triển, và các thế hệ tương lai sẽ lên án một cách không tiếc xót các trang này của lịch sử Châu Phi".
ÐTC nhắc lại với các nhà ngoại giao rằng: Tòa Thánh luôn luôn cộng tác và liên đới với các nước, các tổ chức quốc tế, với mục đích ủng hộ việc phát triển toàn diện con người và các dân tộc. Ngài lên án những ý thức hệ chủ trương áp đặt trên các dân tộc những kiểu mẫu nhất định về xã hội và những thái dộ nhằm quyết định tất cả, không đếm xỉa gì đến ý kiến, nguyện vọng của người dân, quyết định cả về sự sống, sự chết, về những tâm tình sâu xa nhất, về những ý nghĩ và tư tưởng. Ngài nói: có những lúc người ta có cảm giác này là sự sống chỉ có giá trị và được đề cao, khi nào nó còn có ích lợi hay tạo nên thịnh vượng vật chất mà thôi; và đau khổ không có ý nghĩa nào cả. Vì thế, những người tàn tật, những người già cả, những bệnh nhân... cần loại ra ngoài, vì gây nên phiền nhiễu. Phá thai và làm cho chết êm dịu, đối với họ, là những giải pháp có thể chấp nhận được. Giáo Hội ý thức rõ ràng rằng: con người - buồn thay - có thể phản bội chính nhân tính của mình. Vì thế Giáo Hội phải hướng dẫn, phải theo dõi con người, để, trong những sai lầm, con người có thể tìm lại được nguồn mạch của sự sống và của trật tự mà Ðấng Tạo Hóa đã ghi vào trong thâm tâm con người. Nơi nào con người sinh ra, đau khổ và chết đi, thì Giáo Hội sẽ luôn luôn hiện diện, để nhắc nhở cho con người biết rằng: có Một Ðấng nào đó gọi họ ra đi, đón nhận họ và trao ban một ý nghĩa cho cuộc đời tạm bợ của họ trên trần gian.
ÐTC đã nhiều lần lên tiếng và sẽ còn lên tiếng bênh vực phẩm giá tuyệt đối của con người từ lúc thụ thai cho đến hơi thở sau cùng. ÐTC nói: "Khi con người liều đi đến chỗ bị coi là một đồ vật có thể biến đổi hoặc lệ thuộc vào sở thích riêng, khi người ta không cảm thấy hình ảnh Thiên Chúa nơi con người nữa, khi khả năng yêu mến và hy sinh bị giập tắt hoàn toàn, khi tính ích kỷ và việc trục lợi trở nên lý do ưu tiên của hoạt dộng kinh tế, thì lúc đó tất cả đều được phép làm, và sự dã man, tàn bạo không còn xa xôi nữa".
ÐTC kết thúc bài diễn văn như sau: "Những ai bảo đảm luật pháp và sự đoàn kết xã hội trong một Nước, hoặc những ai hướng dẫn các tổ chức được lập ra để mưu tìm công ích của cộng đồng các quốc gia, thì không thể tránh né vấn đề phải sống trung thành với luật không thành văn của lương tâm con người: đó là nền tảng và là sự bảo đảm cho phẩm giá và cho sự sống con người trong xã hội."
THỜI SƯ: Vài bình luận về diễn văn của ÐTC Gioan Phaolô II đọc trước Ngoại Giao Ðoàn cạnh Tòa Thánh nói về tình hình thế giới trong năm 1997 vừa qua.
Bài diễn văn dài ÐTC đọc thứ Bẩy vừa qua trong buổi tiếp Ngoại Giao Ðoàn cạnh Tòa Thánh, đến chúc mừng Năm Mới đã được dư luận lưu ý rất nhiều, không những nơi các báo chí, mà cả nhiều học giả nữa.
Nhật báo Công Giáo Ý có tên là Tương Lai (Avvenire), số ra ngày chúa nhật 11.01.98, đã đăng lại nguyên văn bài diễn văn và ba bài bình luận: một bài của Ðại Sứ Ý cạnh Liên Hiệp Quốc, một bài của phóng viên Salvatore Mazza, và một bài bình luận của giáo sư Possenti.
Phóng viên Mazza đã viết như sau: Diễn văn đầu Năm Mới đọc cho các vị Ðại Sứ cạnh Tòa Thánh Vatican, đã cho ÐTC Gioan Phaolô II cơ hội duyệt lại tình hình các miền khác nhau trên thế giới và nêu lên những dấu hiệu hy vọng, vừa đồng thời yêu cầu đề phòng những "ý thức hệ" và "những áp lực dẫn đưa con người đến chỗ phản bội con người". Phóng viên Mazza nhắc lại lời ÐTC rằng: "Tính ích kỷ mở đường đi đến những dã man và nhân loại của cuối thế kỷ này dễ bị thương tích". Dĩ nhiên trong thế giới ngày nay có nhiều dấu hiệu khích lệ. Nhiều tiến bộ trên con đường dân chủ, cách riêng tại Trung-Ðông Âu. Nền hòa bình tại Bosnia-Erzegovina và Bắc Ái Liên, tuy còn nhiều đe dọa, nhưng cũng có những dấu hiệu thiện chí về đối thoại. Phóng viên Mazza viết thêm như sau: Nếu đem lên cân, thì những lý lẽ lo lắng còn quá nặng. Ðó là những vụ sát hại "vô nhân đạo" và "hết sức dã man" vẫn tiếp tục hằng ngày tại Algérie; những chiến tranh diệt chủng tại Châu Phi; thảm trạng của người dân Curdes và của người dân Irak; cơn khủng hoảng tài chánh bùng nổ trong những ngày này tại Á Châu; tiến trình hòa bình tại Trung Ðông như bị bế tắc. Tất cả những dấu hiệu này cho thấy rằng con người của cuối thế kỷ này rất dễ bị tấn công, và cho thấy rằng con người có thể phản bội chính mình. Phóng viên của nhật báo Avvenire viết tiếp: Cách chung đây là Một diễn văn nêu lên những dấu hiệu khích lệ. Bài diễn văn đưa ra những lời kêu gọi thế giới, các vị trách nhiệm các quốc gia,và các tổ chức quốc tế, cách riêng nhà cầm quyền tại Rwanda, Burundi, Cộng Hòa Dân Chủ Congo (cựu Zaire). Nhưng cũng là một diễn văn đầy lo lắng cách riêng đối với phẩm giá con người đang đi đến miệng hố sâu, bởi vì "khi con người liều đi đến cho bị coi là một đồ vật, được xử dụng theo ý muốn hay biến hóa theo khoa học, kỹ thuật, không còn được coi là hình ảnh Thiên Chúa nữa, chỉ nhằm đến những trục lợi kinh tế, những ích kỷ mà thôi, thì mọi sự đều có thể xẩy ra và những sự dã man sẽ không còn xa xôi".
Trong khi đó, trong bài nhận định của mình, giáo sư Possenti, giáo sư Triết học tại Ðại học Venezia, miền Ðông bắc nước Ý, bình luận về bài diễn văn của Dức Gioan Phaolô II như sau:
"Tất cả đều có thể xẩy ra, nếu con người không còn được coi là hình ảnh Thiên Chúa nữa". ÐTC đã không nói với các nhà triết học hay văn chương, mà nói với các nhà ngoại giao cạnh Tòa Thánh. Ðây là một lời cảnh cáo khiếp sợ, một tiếng kêu báo động vang dội lại tiếng kêu gọi và những lời cảnh cáo của các Tiên tri trong Thánh Kinh Cưu Ước đối với dân Israel mỗi ngày mỗi lìa xa Thiên Chúa". Giáo sư Possenti nói tiếp: "Ðây không phải là cái gì không hợp lý luận, trái lại sứ điệp này còn là một xác nhận về hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh như thế nào: nền ngoại giao của Tòa Thánh không chỉ giới hạn vào những vần đề truyền thống của mối bang giao với các nước, mà còn lo lắng đến chính sự sống con người: một vấn đề nay trở nên vấn đề chính trị nền tảng của thời đại chúng ta". Giáo sư nói tiếp: "Trong thế kỷ này tính cách dã man mọi rợ được trình bày trước mắt chúng ta với bộ mặt của các chế độ độc tài. Và không phải tình cờ, khi ÐTC Gioan Phaolô II viết trong Thông Ðiệp (Centesimus Annus) (Năm thứ một Trăm): "Nếu không có một chân lý sau cùng hướng dẫn và định hướng hoạt động chính trị, thì lúc đó các tư tưởng và các niềm tin, rất dễ bị lợi dụng, bị lèo lái theo các mục tiêu của quyền bính". Giáo sư giải thích: "Trong Thông Ðiệp, lời của ÐTC Gioan Phaolô II trên đây, ám chỉ các chế độ chính trị độc tài. Trong diễn văn đọc cho Ngoại Giao Ðoàn, ngài nhắc lại những điều đã nói trong thông điệp cho cuộc chung sống con người. ÐTC nói với chúng ta rằng: sự dã man, mọi rợ không xa chúng ta, nếu đời sống xã hội không dựa trên các giá trị sau cùng đã được ghi trong tâm hồn con người. Trong dịp này, ÐTC giơ tay chỉ vào các "ý thức hệ chủ trương tự cho mình quyền quyết định mọi sự: quyết định về sự sống, sự chết, sự sinh sản, dân số... Ðời sống xã hội bị đo lường theo những tiêu chuẩn của tiện nghi vật chất tối đa và tránh né hay tối thiểu hóa sự đau khổ; tất cả được thẩm định theo ích lợi cá nhân. ÐTC Gioan Phaolô II không chỉ nói đến những ý thức hệ độc tài mà thôi, nhưng còn nói đến những "áp lực" nhằm áp đặt trên người khác, các quan niệm và cách cư xử của mình.
Giáo sư Possenti kết luận như sau: "Ðây là một diễn văn hết sức nghiêm chỉnh và cụ thể, không chỉ liên hệ đến các triết gia hay chính trị gia, nhưng trái lại bao trùm tất cả đời sống hằng ngày của con người và tương lai nhân loại. Người cầm đầu một xã hội dân sự không thể để mình bị chi phối bởi "những kiểu nói mập mờ và lường gạt" trên, vì chúng nhằm xóa bỏ phẩm giá con người và đưa con nguời đến chỗ trở thành như một vật thí nghiệm của khoa học và kỹ thuật.