Anh chị em thân mến,
Trước hết, chúng tôi xin gửi tới anh chị em lời chào thân ái: "Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em" (Sách Lễ Rôma).
Cuộc họp lần này diễn ra vào những tháng cuối của Năm Thánh 2000, cũng là dịp kỷ niệm 40 năm thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam (24-11-1960), và kỷ niệm 20 năm Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam họp toàn thể lần đầu tiên (24-4 - 1-5-1980), còn là dịp kỷ niệm Tông Huấn "Giáo Hội tại Á Châu" của Ðức Gioan Phaolô II công bố được một năm (6-11-1999).
Việc thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam là bằng chứng Giáo Hội Việt Nam đã trưởng thành, đã sống và đang sống đức tin với lòng xác tín và lãnh trách nhiệm loan báo Tin Mừng cứu rỗi cho đồng bào của mình.
Việc mừng hai mươi năm Hội đồng Giám mục toàn quốc ra thư chung năm 1980 với đường hướng mục vụ "sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc" thúc đẩy chúng ta sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng theo cung cáchViệt Nam.
2. Lại nữa, để hoà nhịp với các cộng đoàn Giáo Hội tại Á Châu đang phấn khởi vui mừng trước đà tiến mới, chúng tôi mời gọi toàn thể Dân Chúa ở Việt Nam cùng với chúng tôi học tập sâu rộng Tông Huấn "Giáo Hội tại Á Châu", để nhờ đó thêm nghị lực và phấn khởi mà sống làm chứng và loan báo Tin Mừng cho mọi giới đồng bào thân yêu của chúng ta.
Thật là phấn khởi vô cùng khi nghe lời của Ðức Gioan Phaolô II mở đầu Tông Huấn: "Giáo Hội tại Á Châu ca lên những lời ngợi khen Thiên Chúa cứu độ" (Tv 68, 20), vì Người đã chọn ?đất Á Châu? để khởi đầu kế hoạch cứu độ loài người" (Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu {GA} số 1). Chính tại Á Châu, Thiên Chúa đã mạc khải và hoàn thành ý muốn cứu độ của Người.
Ðến thời viên
mãn (x. Gl 4,4), Thiên Chúa đã sai
Con Một của Người là Ðức
Giêsu Kitô Ðấng Cứu Thế
đến trần gian làm một người
Á Châu. Người đã sinh
ra, đã sống, đã chết và
sống lại tại Thánh Ðịa, một
miền đất nhỏ bé của miền
Tây Á Châu. Thánh địa đã
trởû thành mảnh đất của
Lời Hứa và Niềm Hy Vọng
cho toàn thể nhân loại (x. GA, số 1).
Thế nhưng cho tới nay nhiều người
Á Châu vẫn chưa nhận biết Tin
Mừng để trở thành Kitô
hữu.
Làm chứng là cách thế đầu tiên, cũng có thể là cách duy nhất để loan báo Tin Mừng (x. Sứ Vụ Ðấng Cứu Ðộ, số 31), song việc trực tiếp loan báo Tin Mừng bằng lời nói vẫn là đòi hỏi của bản chất Tin Mừng, như các Tông Ðồ đã tuyên bố: "Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể nào không nói ra" (Cv 4,20). Thế nhưng thường khi nhiều người trong chúng ta không còn cảm thấy nỗi thúc bách này nữa. Tại sao?
5. Thứ nhất: có khi chúng ta chưa thật sự cảm nghiệm Chúa Kitô là lẽ sống của chúng ta, nên chúng ta thờ ơ. Vậy chúng ta phải cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa để cảm nghiệm được Chúa Kitô "là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6).
Thứ hai: có khi chúng ta nhát đảm không dám nói với người khác về Chúa Kitô. Hãy nhớ Lời Chúa căn dặn: "phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời" (Mt 10,32-33).
Thứ ba: có khi chúng ta không thấy nghĩa vụ phải loan báo Tin Mừng, vì chưa có được tinh thần của thánh Phaolô: "Ðối với tôi, rao giảng Tin Mừng là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm" (1 Cr 9,16), hơn nữa vì lãng quên lệnh Chúa truyền: "Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo" (Mc 16, 15).
Thứ bốn: có
khi chúng ta không biết phải nói
như thế nào. Ðó là vì
chúng ta chưa dám trả lời câu
Chúa Giêsu hỏi: "còn anh em, anh em nói
Thầy là ai?" (Lc 9,20). Vậy hãy để
cho Chúa Giêsu thật sự sống trong
cuộc đời chúng ta.
6. Phổ biến Thánh Kinh và huấn luyện các tín hữu biết đọc, suy niệm và cầu nguyện theo Lời Chúa.
Thời gian qua, các
tín hữu đã tỏ ra lòng
khao khát được học hỏi Thánh
Kinh để biết cách đọc, suy niệm
và cầu nguyện theo Lời Chúa.
Tông Huấn nhận định: "việc đào
taọ về Thánh Kinh phải được
coi là một phương thế quan trọng
trong nỗ lực giáo dục dân chúng
trong đức tin và trang bị cho họ
thi hành công tác loan báo Tin Mừng"
(GA, số 21).
Ðối với việc
đào tạo tu sĩ, Thượng Hội
Ðồng cũng tuyên bố: "linh đạo
và lối sống của họ phải làm
sao tỏ ra nhạy cảm với di sản
văn hoá và tôn giáo của những
người cùng chung sống với
họ và đang được họ phục
vụ, luôn giả thiết rằng phải
có sự phân định đâu
là điều phù hợp với
Tin Mừng, đâu là điều
không phù hợp" (GA, số 22). Tông
Huấn vạch rõ ba đặc điểm
giúp đời tu trở nên chứng
tá tại Châu Á: Tìm kiếm
Chúa, sống tinh thần hiệp thông huynh
đệ và phục vụ người
khác (GA, số 44).
Tông Huấn đã
nhấn mạnh: "Hơn ai hết, họ chính
là những người được
mời gọi biến đổi xã hội,
cộng tác với các giám mục,
linh mục và tu sĩ, bằng cách đưa
"tinh thần của Ðức Kitô" vào
trong não trạng, tập quán, luật lệ
và cơ chế của thế giới
mà trong đó họ đang sống" (GA,
số 22).
Các đoàn thể phải là nơi học hỏi, chia sẻ và sống Lời Chúa, không nên dừng lại ở các sinh hoạt hình thức bên ngoài.
Cử hành phụng vụ lấy Lời Chúa làm nền tảng, là dịp để đi sâu vào Giáo huấn của Chúa và dẫn tới hoán cải đời sống.
Các lễ hội của giáo xứ phải là dịp để sống đạo đức, bác ái, hiệp nhất, vui tươi, chứ đừng trở thành những dịp tranh đua không lành mạnh.
Việc giảng dạy giáo
lý phải chú trọng vào đời
sống chứ không chỉ để truyền
đạt kiến thức.
Anh chị em thân mến,
12. Trên đây là những điều thiết thực và cấp bách mà chúng tôi muốn đề nghị với anh chị em để làm cho Hội Thánh Việt Nam có thể bước vào thiên niên kỷ thứ ba với một bộ mặt mới và một khí thế mới. Ước mong sao từ năm 2000 này, tất cả chúng ta và mỗi cộng đoàn giáo xứ đã có những chương trình hành động cụ thể nhằm canh tân và thực hiện những điều chúng tôi đề ra cho anh chị em trong dịp này.
Nguyện xin Thiên Chúa
làm cho anh chị em trở nên những
người và những cộng đoàn
sống, làm chứng và loan báo
Tin Mừng. Xin Ðức Mẹ Maria, Thánh
cả Giuse và các Thánh Tử Ðạo
Việt Nam cầu bầu cho tất cả chúng
ta.
Nicôla HUỲNH VĂN
NGHI
GM. Ðệ Nhất Phó
Chủ Tịch
Bartôlômêô
NGUYỄN SƠN LÂM Giám Mục Tổng
Thư Ký