Thánh Phaolô viết:"Lần đầu tiên tôi phải tự bào chửa trước tòa, không ai ở bên cạnh tôi. Mọi người đã bỏ rơi tôi. Nhưng Chúa đã ở với tôi và tăng sức mạnh cho tôi, để rồi ngay trong hoàn-cảnh đó tôi có thể rao truyền sứ-điệp của Ngài." Với những lời đó của Thánh Phaolồ, Ðức Tổng Giám-Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn-Văn-Thuận đã bắt đầu ngày thứ tư của tuần lễ tĩnh-huấn cho Ðức Thánh Cha. Hôm nay, Ðức Tổng Giám-Mục đã suy ngắm Chúa Kitô trên Thập-Giá, lắng nghe từ tận đáy lòng mình tiếng kêu của Chúa Kitô: "Lạy Cha, lạy Cha, sao Chúa bỏ con?" "Sự bỏ rơi mà Thánh Phaolồ đã cảm-nghiệm, chính tôi cũng đã từng chứng-nghiệm suốt 13 năm giam cầm trong lao-tù. Nhiều khi tôi cảm thấy bị bỏ rơi, nhất là trong đêm 01 tháng mười hai năm 1975, khi tôi bị còng chung với một tù-nhân và cùng với các tù-nhân khác, chúng tôi được dẫn bộ từ trại giam xuống chiếc tàu thủy sẽ đưa chúng tôi ra miền Bắc, cách giáo-phận của tôi khoảng 1,700 cây số. Tôi cảm thấy thật đớn đau về phương-diện mục-vụ, tuy-nhiên, tôi có thể quả-quyết rằng Cha trên trời đã không bỏ rơi tôi, và Ngài đã cho tôi sức mạnh."
"Có thể tất cả chúng ta, ở vào những cảnh-ngộ khác nhau, đã hay đang trải qua những giờ phút bị bỏ rơi. Chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi khi chúng ta bị nhận chìm trong cô-đơn và cảm giác thất-bại; khi chúng ta cảm thấy gánh nặng của thân-phận làm người và tội-lỗi chúng ta. Chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi khi những sự hiểu lầm và bất trung khuynh-đảo những tương-giao huynh-đệ của chúng ta; khi chúng ta nghĩ rằng mình đang ở trong trạng-thái hổn loạn và tuyệt-vọng không có lối thoát; và khi chúng ta cảm nghiệm được những khổ đau của Giáo-Hội và của quảng-đại quần-chúng."
"Ðó là những 'đêm tối của tâm-hồn', vắn hay dài, đã làm tối sầm sự hiện-diện của Thiên-Chúa trong ta. Tuy-nhiên, Chúa vẫn ở gần ta và đã cho cuộc đời ta một ý-nghĩa. Trong những khoảnh khắc đó, cho dẫu niềm vui và sự yêu-thương đều xem như bị dập tắt, chính những lúc đó là khi chúng ta có thể hiểu tỏ-tường "mầu-nhiệm thập-giá."
"Các thánh cũng đã trải qua những đêm dài tuyệt-vọng, khi mà các ngài cảm thấy bị mọi sự và mọi người bỏ rơi. Tuy nhiên, là những người đã thực-sự lão-luyện về tình yêu của Chúa, họ không bao giờ ngại-ngùng bước theo con đường thánh-giá cho đến cùng, để mặc cho thánh-giá soi dẫn và tôi-luyện, cho dẫu phải trả giá bằng chính sinh-mạng của mình. Ðó là lề-luật Phúc-Âm: 'Nếu hạt giống gieo xuống đất mà không bị hủy-diệt thì còn lại trơ-trọi, nếu bị hủy-diệt thì sẽ sinh nhiều hoa trái.' Ðó cũng chính là lề-luật của Chúa Giêsu: cái chết của Ngài là trung-thực, nhưng sự sống sung-mãn tuôn tràn từ cái chết đó lại càng trung thực hơn nữa."
"Trong thư gởi cho Giáo-Ðoàn Philipphê, Thánh Phaolồ trình bày Ðức Kitô "bị tước bỏ thiên-tính của Ngài, nhận lấy 'thân phận tôi đòi' để 'nên giống con người' hoàn toàn. Ðó là hình ảnh của một Thiên-Chúa 'tự hủy-diệt', 'dốc bỏ' chính mình Ngài để tự hiến mạng sống mình vô điều-kiện, cho đến độ chết trên thập-tự-giá để gánh hết mọi tội lỗi của nhân loại, và cho đến độ mặc dầu là "Ðấng vô tội', 'Ðấng công-chính" Ngài đến trong trần-gian như một phàm-nhân tội-lỗi. Ðó là sự trao-đổi kỳ-diệu giữa Thiên-Chúa và con người, mà Thánh Augustinô mô tả như là cuộc "trao đổi tình yêu" và Thánh Lêo Cả gọi là "trao đổi cứu rổi."
"Ðức Kitô gánh lấy tội-lỗi nhân-loại nặng nề đến độ từ trên thập giá Ngài phải kêu lên cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con?" Ngài đã bị con người phản-bội, những người thân-thuộc của Ngài không còn ở với Ngài, và giờ đây Thiên-Chúa mà Ngài gọi là 'Cha' ('Abba'), cũng lặng thinh. Ðức Chúa Con cảm thấy sự trống vắng của Chúa Cha, Ngài mất hẳn niềm vui của sự hiện-diện Chúa Cha. Niềm xác quyết tuyệt đối sẽ không bao giờ bị bỏ rơi một mình, luôn luôn được Chúa Cha nghe đến, và luôn thực thi thánh ý Chúa Cha, đã khiến Ngài kêu lên lời khẩn-khoản bi-thiết trên đây."
"Ðó là tình-cảnh
bị bỏ rơi thê thảm dễ nhận
thấy nhất mà Chúa Giêsu đã
kinh-nghiệm trong cuộc sống như Thánh
Gioan Thánh-Giá đã mô tả.
Như vậy Ðức Kitô đã
bị hủy-diệt và hoàn-toàn trở
thành số không. Và cũng như
Thánh Gioan Thánh-Giá tiếp-tục giải-thích,
chính khi Ngài bị bức bách,
Ngài đã hoàn tất kỳ-công
tuyệt-diệu nhất đối với
tất cả những gì mà Ngài
đã thực-hiện trong suốt cuộc
đời trần-thế, đầy dẫy
những phép lạ dấu kỳ. Với
cái chết, Ngài đã hòa-giải
và nối kết Thiên-Chúa với
loài người. Ở trong tình
yêu năng động diệu kỳ của
Thiên-Chúa, mọi đau khổ của chúng
ta đều được thâu nhặt
và chuyển biến, mọi khoảng trống
đều được lấp bằng,
mọi tội-lỗi đều được
cứu chuộc. Việc chúng ta bị bỏ
rơi và khoảng cách giữa chúng
ta với Thiên-Chúa đã được
khỏa lấp đến tràn-trề."