Trưa thứ ba 17/12, tại Phòng Báo Chí Toà Thánh, ÐHY Roger Etchegaray, chủ tịnh, và Ðức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, phó chủ tịch Hội Ðồng Toà Thánh Công Lý và Hoà Bình, đã giới thiệu với báo chí sứ điệp Hoà Bình của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho ngày quốc tế Hoà Bình, mùng một tháng giêng năm 1997. Chủ đề của sứ điệp là Hãy tha thứ và lảnh nhận Hoà Bình. Nếu chúng ta chú ý vào cách thức ÐTC dùng để diển tả chủ đề của sứ điệp, thì chúng ta phải hiểu là: hãy thi hành trước, hãy ứng trước sự tha thứ, rồi sẽ lảnh nhận Hoà Bình. Như thế, nếu bạn muốn huởng Hoà Bình, thì hãy thực hiện sự tha thứ trước. Tha thứ để có Hoà Bình, tha thứ để lảnh nhận Hoà Bình, tha thứ để có thể hưởng Hoà Bình.
Toàn bộ sứ điệp dài 10 trang đánh máy, khổ thường, và được chia ra làm 8 số, bàn về những điểm chính sau đây:
số 1, là phần nhập
đề, giới thiệu chủ đề
của sứ điệp.
số 2, nhận định về thế giới
chúng ta đang sống, một thế giới
mang nhiều vết thương, cần được
chửa trị.
số 3, nhắc lại những gáng nặng,
hay đúng hơn, phần gia tài đau
thuơng mà quá khứ còn để
lại cho chúng ta ngày nay.
số 4, trình bày con đường
cụ thể để thực hiện sự
hoà giải.
số 5, nhắc lại hai nền tảng căn
bản để thực hiện sự tha
thứ: đó là sự thật
và sự công bằng.
số 6, mời gọi mỗi người
chúng ta hướng về Chúa Giêsu
Kitô, Ngài là sự hoà giải
của chúng ta.
số 7, nhắc đến bổn phận của
mọi người đồ đệ Chúa
Giêsu Kitô, phải phục vụ cho sự
Hoà Giải.
Và cuối cùng số 8, là lời
kêu gọi của ÐTC gởi đến
mọi người có niềm tin và
thiện chí, mời gọi họ hãy
là dụng cụ của Hoà Giải và
Hoà Bình.
Giờ đây, chúng ta hãy cùng nhau đọc số 1 , tức là số nhập đề của sứ điệp, như sau:
Chỉ còn ba năm nữa, là chúng ta bắt đầu ngàn năm mới. Thời gian hiện nay là thời gian để suy nghĩ, mời gọi chúng ta hãy thực hiện một tổng kết tình hình đã qua về cuộc hành trình của nhân loại trước nhan Thiên Chúa, Chủ của lịch sử. Nếu chúng ta nhìn lại ngàn năm đã qua, và đặc biệt thế kỷ 20 chúng ta đang sinh sống, chúng ta phải công nhận rằng con đường tiến của nhân lọai đã được soi sáng bởi tiến bộ trong những lảnh vực xã hội, văn hoá, kinh tế, khoa học và kỷ thuật. Nhưng buồn thay, ánh sáng tiến bộ nầy cùng hiện diện với những bóng tối trường kỳ, đặc biệt trong những lảnh vực luân lý và tình liên đới. Có một gương xấu thật sự về bạo lực, còn đang đánh phá đời sống con người trong cách thức củ cũng như mới, và đang làm tan nát các gia đình và các cộng đoàn. Ðã đến lúc cần phải quyết định dứt khoát để cùng nhau tiến trên con đường hành huơng của Hoà Bình, bắt đầu từ hoàn cảnh cụ thể trong đó chúng ta đang sống. Ðôi khi, những khó khăn có thể làm chúng ta nản lòng: nguốn gốc chủng tộc, tiếng nói, văn hoá và niềm tin tôn giáo, lại thuờng là những cản trở cho cuộc hành hương Hoà Bình nầy. Cùng nhau tiến tới, khi chúng ta còn mang lấy những kinh nghiệm bi thảm hay cả những chia rẽ từ lâu, thì không phải là điều dễ làm. Vậy thì, vấn đề được đặt ra là: chúng ta phải đi theo con đường nào đây? Chúng ta phải tiến theo hướng nào đây ? Chắc chắn là có nhiều yếu tố có thể giúp vào để mang lại hoà bình, vừa vẩn bảo vệ được những đòi hỏi của công bằng và phẩm giá con người. Nhưng không bao giờ có thể bắt đầu đi trên con đường Hoà Bình, ngoại trừ khi thái độ thành thật tha thứ ăn rễ sâu vào trong tâm hồn con người. Khi thiếu sự tha thứ, thì những vết thương tiếp tục làm độc, nuôi dưỡng những tâm tình thù hận bực dọc mãi mải trong tâm hồn các thế hệ đến sau, vừa tạo ra ý muốn báo thù và gây ra những tàn phá mới. Cung cấp và lảnh nhận sự tha thứ là điều kiện thết yếu để thực hiện cuộc hành trình tiến đến nền Hoà Bình đích thực và lâu dài.
Do đó, với niềm xác tín sâu xa, tôi muốn kêu gọi mọi người hãy đi tìm Hoà Bình, trên con đường tha thứ. Tôi hoàn toàn ý thức rằng sự tha thứ có thể xem ra như nghịch lại lối suy nghĩ của con người, một lối suy nghĩ thường nghiêng về những khuynh hướng chống đối tranh chấp và trả thù. Nhưng sự tha thứ được gợi hứng bởi năng động của tình yêu thương, tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mọi người nam nữ, đối với mọi dân mọi nuớc, và đối với toàn thể gia đình nhân loại. Nếu Giáo Hội dám rao giảng điều mà từ quan điểm con người có thể đuợc coi như là thật sự ngu xuẩn, thì đó là vì Giáo Hội tin tưởng một cách không lay chuyển vào tình yêu thuơng vô cùng của Thiên Chúa. Như Kinh Thánh làm chứng, Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng nhân từ và đầy sự tha thứ đối với những ai trở về với Ngài ( x. Ez.18,23; TV 32,5; TV 103,8-14; Eph 2,4-5' 2Co1,3). Sự tha thứ của Thiên Chúa trở thành trong tâm hồn chúng ta, nguồn mạch không cùng cho sự tha thứ trong những tương quan giữa con người với nhau, vừa giúp chúng ta sống chung với nhau trong tình huynh đệ đích thực.
ÐTC đã nói nơi số nhập đề của sứ điệp Hoà Bình: tha thứ và được tha thứ, đó là con đường dẩn đến hoà bình. Dĩ nhiên, ÐTC đã không có cái nhìn quá đơn sơ về hoàn cảnh ngày nay. Ngài ý thức tha thứ là điều khó thực hiện, và cần phải tôn trọng sự thật, thực thi công bằng. Và người Kitô có mẩu gương tha thứ của Chúa để noi theo. Cần phải tin tưởng vào tình thương của Chúa luôn tha thứ, để chúng ta có thể tha thứ luôn luôn cho anh chị em. Tóm lại, chúng ta nhận thấy rằng, ÐTC đã không nói đến kỷ thuật chính trị để xây dựng Hoà Bình, mà nói về con đường tinh thần cần thiết, để xây dựng hoà bình. Hãy đi tìm Hoà Bình trên con đường của sự tha thứ. ÐTC sẽ giải thích rộng hơn nữa Lời kêu gọi nầy nơi hai số 4 và 5 của sứ điệp, trong đó ÐTC trình bày những thực hành cụ thể và hai điều kiện căn bản để tha thứ; đó là biết tôn trọng sự thật và thực thi công bằng.
Chúng ta hãy đọc qua số 2 như sau:
Như tôi đã nói, thế giới hiện đại, mặc cho nhiều thành công đạt được, tiếp tục bị ghi dấu bởi những mâu thuẩn. Tiến bộ trong lảnh vực kỷ nghệ và nông nghiệp đã mang đến một mức sống cao hơn cho hàng triệu người và cung cấp niềm hy vọng cao cả cho nhiều người khác nữa. Kỷ thuật đã thu ngắn những khoảng cách, trong khi đó thì sự thông tin đã trở thành như là đồng thời và đã có thể tạo ra những tiến bộ mới trong ngành hiểu biết của con người. Sự tôn trọng đối với môi sinh càng ngày càng gia tăng và trở thành như là nề nếp cho cuộc sống. Con số đông những thiện nguyện viên, vớilòng quảng đại thường không được biết đến, đang làm việc không biết mệt mỏi tại khắp nơi trên thế giới để phục vụ cho điều thiện hảo của nhân lọai, với hết sức cố gắng để thoả mãn nhất là những nhu cầu của người nghèo và người đau khổ.
Làm sao chúng ta có thể bỏ qua không vui mừng nhìn nhận những khiá cạnh tích cực trên của thời đại chúng ta? Nhưng rủi thay, thế giới hiện nay cũng cho ta nhìn thấy nhiều dấu chỉ tiêu cực. Trong số những dấu chỉ tiêu cực đó, phải kể đến chủ nghĩa duy vật và sự khinh thị càng ngày càng tăng đối với sự sống con người; cả hai điều nầy càng ngày làm cho chúng ta quan tâm lo lắng. Nhiều người sống cuộc đời họ mà không tuân theo điều gì khác hơn là theo những định luật của lợi lộc, uy tín và uy quyền.
Và hậu quả là nhiều người cảm thấy mình như bị giam hảm trong sự cô đơn nội tâm sâu xa. Những người khác thì tiếp tục bị kỳ thị một cách cố ý, dựa trên lý do chủng tộc, quốc gia hay phái tính. Sự nghèo cùng đang đưa hàng lớp người ra ngoài lề xã hội, hay tệ hại hơn nữa, đưa họ đến chổ bị tiêu diệt. Ðối với thật nhiều người, thì chiến tranh đã trở thành như là thực tại khó khăn hằng ngày. Một xã hội chỉ quan tâm đến những lợi ích vật chất và chóng qua, thì có khuynh hướng loại ra ngoài lề những ai không còn hữu ích cho những mục tiêu đó nữa. Ðứng trước những hoàn cảnh như thế, hoàn cảnh kéo theo những thảm cảnh thật sự cho con người, vài người có thái độ đơn giản là nhắm mắt làm ngơ, lẩn trốn trong sự lảnh đạm. Họ có thái độ giống như Cain ngày xưa: Tôi là kẻ gìn giữ anh em tôi sao? ( STK 4,9). Nhưng giáo hội có bổn phận nhắc lại cho từng người nhớ lời cảnh tỉnh của Thiên Chúa như sau: "Nguơi đã làm gì thế? Tiếng nói của máu của người anh em ngươi từ đất vang lên đến Ta" ( STK 4,10).
Khi có quá nhiều anh chị em chúng ta đau khổ như thế, chúng ta không thể nào sống lảnh đạm. Những nổi thống khổ của họ kêu gào đến lương tâm chúng ta, cỏi nội tâm trong đó chúng ta phải đối diện trực tiếp với chính mình và với Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể không nhìn thấy được rằng, trong những mức độ khác nhau, tất cả chúng ta đều có liên hệ vào công cuộc xét lại cuộc sống, một cuộc kiểm điểm mà Thiên Chúa đang kêu gọi chúng ta thực hiện? Tất cả chúng ta đều cần sự tha thứ từ Thiên Chúa và từ người anh chị em lân cận chúng ta. Do đó, chúng ta tất cả cần phải sẳn sàng để tha thứ và xin kẻ khác tha thứ cho mình.
Giờ đây ÐTC muốn nhắc đến những gáng nặng hận thù và bạo lực chồng chất trong lịch sử, làm cho việc tha thứ trở thành khó khăn, nếu không muốn nói là không thể được. ÐTC khuyên mỗi người hãy vượt ra khỏi quá khứ không tốt, để có thể tha thứ cho nhau. ÐTC đã viết như sau trong số 3 của sứ điệp Hoà Bình:
Khó khăn để tha thứ không chỉ đến từ những hoàn cảnh của hiện tại. Lịch sử có mang theo với mình một gáng nặng nề những bạo lực và xung đột, mà người ta không thể nào cất bỏ một cách dễ dàng. Những lạm dụng quyền hành, sự đàn áp và những chiến tranh đã mang đến đau khổ cho vô số người, và, cả khi những nguyên nhân của những biến cố đau thuơng đó đã mất hút trong quá khứ xa xôi, nhưng những hậu quả tàn phá của chúng vẫn còn, gieo rắc sợ hải, nghi ngờ, thù ghét và chia rẽ giữa các gia đình, các nhóm chủng tộc và trọn cả những dân tộc. Ðó là những sự kiện thách thức một cách nghiêm trọng cho thiện chí của những ai cố gắng vượt qua những hoàn cảnh đã xảy ra. Thật vậy người ta không thể nào sống nô lệ cho quá khứ, vì các cá nhân cũng như các dân tộc cần đến một thứ như là sự chửa lành các ký ức, sao cho những sự xấu đã xảy ra, sẽ không trở lại lần nữa. Ðiều nầy không có nghĩa là quên đi những biến cố đã xảy ra. Nó có nghĩa là xem xét lại những biến cố xấu đó với một thái độ mới, và học từ bài học của kinh nghiệm về đau khổ rằng chỉ có tình yêu thương mới có thể xây dựng, trong khi mà hận thù thì tạo ra tàn phá và sụp đổ. Vòng lẩn quẩn trả thù cần phải được thay thế bởi sự tự do mới có được do sự tha thứ. Ðể có thể làm được như vừa nói, chúng ta phải học đọc lịch sử của những dân tộc khác, mà không chiều theo thiên vị dễ dàng và phe nhóm, vừa cố gắng tìm hiểu những quan điểm của họ. Ðây quả thật là một thách thức thật sự trên bình diện giáo dục và văn hoá. Ðây là một thách thức cho nền văn minh. Nếu chúng ta đồng ý đi trên con đường tha thứ nầy, chúng ta cần phải nhìn thấy rằng những lỗi lầm không nằm tất cả ở một bên mà thôi. Chúng ta sẽ thấy lịch sử đôi khi đã bị trình bày một cách méo mó và cả đôi khi bị xách động, dẩn đưa đến những hậu quả bi thảm.
Một việc đọc lịch sử một cách đúng đắn sẽ làm cho dễ dàng hơn việc chấp nhận và đánh giá những khác biệt xã hội, văn hoá và tôn giáo, giữa các cá nhân, các nhóm và các dân tộc. Ðây là bước thứ nhất dẩn đến việc hoà giải, bởi vì việc tôn trọng những khác biệt là điều kiện cần thiết đi liền theo đó, để có những tương quan đích thực giữa các cá nhân và các nhóm. Việc hủy bỏ những khác biệt có thể đưa đến một thứ hoà bình bên ngoài, nhưng điều đó tạo ra hoàn cảnh tạm bợ, và hoàn cảnh tạm bợ nầy thật ra là một nhập đề cho những xuất phát mới của bạo lực.
Những cuộc chiến, cả khi chúng giải quyết được những vấn đề đã gây ra chiến tranh, nhưng chỉ giải quyết qua việc để lại vô số những nạn nhân và sự tàn phá, có ảnh hưởng nặng nề trên những thương thuyết hoà bình sau đó. Ý thức về điều nầy sẽ khuyến khích các dân tộc, quốc gia và nhà nuớc hãy nhất quyết vượt qua, một lần thay cho tất cả, ( một lần rồi thôi), vượt qua nền văn hoá của chiến tranh, không những trong hình thức hết sức đáng ghê tởm của nó là dùng sức mạnh của chiến tranh như phương tiện làm bá chủ, nhưng còn trong hình thức ít bị chê trách hơn, nhưng không phải vì thế mà ít tàn phá hơn, đó là hình thức dùng vũ khí như phuơng thế nhanh chóng để giải quyết vấn đề. Chính vào thời đại chúng ta hôm nay, thời đại có những kỷ thuật tối tân nhất để huỷ diệt, thì điều hết sức khẩn cấp là hãy phát triển một nền văn hoá liên lỉ huớng đến hoà bình, để chận trước và chống lại sự bùng nổ xem ra như không thể tránh được của những bạo lực có vũ trang, kể cả việc phải có những biện pháp để ngưng lại việc gia tăng nền kỷ nghệ chế tạo vũ khí và buôn bán các vũ khí.
Nhưng cả trước khi làm việc đó, ước muốn chân thành có hoà bình cần phải được diển dịch ra bên ngoài bằng một quyết định cứng rắn cất bỏ mọi trở ngại không cho ta đạt đến hoà bình. Trên bình diện nầy, các tôn giáo có thể đóng góp phần quan trọng, như đã làm như vậy trong quá khứ, qua việc nói lên lập trường chống lại chiến tranh và can đảm đương đầu với những hậu quả khó khăn gặp phải vì lập trường như vậy. Nhưng, không phải tất cả chúng ta đều được mời gọi hãy làm nhiều hơn nữa, nhờ bởi việc kín múc phần gia tài đích thực của các truyền thống tôn giáo của chúng ta hay sao?
Ðồng thời, bổn phận của các chính quyền và cộng đồng quốc tế là điều thiết yếu trong những vấn đề nầy. Họ có bổn phận đóng góp vào để xây dựng hoà bình, nhờ qua việc thiết lập những cơ cấu vững chắc có thể đương đầu với những thay đổi chính trị, và như thế bảo đảm cho mọi người có được tự do và an ninh trong mọi trường hợp. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, chẳng hạn, trong sự trung thành với lý tưởng sáng lập, đã lảnh lấy nhiều trách nhiệm hơn để duy trì hoặc tái lập hoà bình. Trên bình diện nầy, 50 năm sau khi được thành tổ chức Liên Hiệp Quốc, người ta có thể hy vọng rằng những phuơng tiện mà LHQ xử dụng, sẽ được kiểm điểm lại một cách thích đáng, để làm cho tổ chức có khả năng đương đầu một cách hữu hiệu hơn những thách thức của thời đại chúng ta.
Những tổ chức khác trên bình diện đại lục và vùng cũng có tầm quan trọng đáng kể như là những phương thế cỗ võ cho hoà bình: thật là diều làm ta vững tin, khi nhìn thấy những phuơng thế nầy được xử dụng để phát triển những biện pháp thực hành cụ thể, giúp cho sự hoà giải, vừa hoạt động một cách tích cực để giúp cho các dân tộc đã bị chia rẻ vì chiến tranh nay được khám phá lại những lý do để chung sống hoà hợp và hoà bình với nhau. Ðó là những hình thức trung gian mang đến niềm hy vọng cho các dân tộc đang sống trong những hoàn cảnh xem ra như tuyệt vọng. Và chúng ta cũng không nên đánh giá thấp họat động của những tổ chức địa phương: được hiện diện tại chổ, nơi những mầm móng xung đột được gieo rắc vào, những tổ chức tại địa phương nầy có thể ảnh huởng trên các cá nhân một cách trực tiếp, vừa làm trung gian giữa những phe đối nghịch nhau và cỗ võ cho sự tin tưởng lẩn nhau.
Tuy nhiên, nền hoà bình vững bền không phải chỉ là vấn đề đơn thuần của những cơ cầu hay tổ chức bên ngoài. Trên hết mọi sự, nền Hòa Bình vững bền nầy dựa trên sự chấp nhận một nề nếp chung sống giữa con người với nhau, một nề nếp được ghi dấu bởi sự chấp nhận lẩn nhau và có khả năng tha thứ từ tận tâm hồn con người. Tất cả chúng ta đều cần sự tha thứ của kẻ khác,, và do đó, chúng ta cần phải sẳn sàng tha thứ cho lẻ khác. Xin tha thứ và thực hành tha thứ cho kẻ khác, là điều hết sức xứng đáng với con người. Ðôi khi đây là lối thoát duy nhất, để vượt qua được những hoàn cảnh hậu quả của hận thù sâu xa và kéo dài cả thế hệ.
Chắc chắn rằng sự tha thứ không đến một cách tự phát hay tự nhiên với con người chúng ta. Tha thứ từ trong thâm tâm mình đôi khi là một hành động anh hùng. Nổi đau khổ vì mất con, mất anh chị em trong gia đình, mất cha mẹ, hay mất trọn cả gia đình, do hậu quả của chiến tranh, nạn khủng bố hay những hành động phạm pháp, có thể đưa chúng ta đến thái độ đóng kín hoàn toàn chính mình trước kẻ khác. Những người đã mất tất cả, vì không còn nhà cửa đất đai, những người tị nạn và những kẻ phải chịu nhục nhả vì bạo lực, không thể nào không cảm thấy bị cám dỗ sống uất hận và muốn trả thù. Chỉ có sức nồng ấm của những liên lạc giữa con người với nhau, được ghi dấu bởi sự tôn trọng, thông cảm và chấp nhận nhau, mới có thể giúp vượt qua những tâm tình uất hận và muốn trả thù nầy. Cuộc gặp gỡ đầy sức giải thoát với sự tha thứ, mặc dù còn đầy những khó khăn, có thể được cảm nghiệm cả bởi một tâm hồn đã bị thương tổn, nhờ vào sức mạnh chửa lành của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn nơi Thiên Chúa, Ðấng là tình yêu.
Sự tha thứ, trong hình thức trung thực nhất và cao cả nhất của nó, là một hành động tự do của tình yêu thương. Nhưng, chính bởi vì nó là hành động của tình yêu thương, nên nó có những đòi hỏi nội tại riêng của nó. Ðòi hỏi đầu tiên trong các đòi hỏi là tôn trọng sự thật. Chỉ mình Thiên Chúa là sự thật tuyệt đối. Nhưng Ngài đã tạo dựng con tim con người mở rộng hướng về sự thật, mà Ngài sau đó mạc khải đầy đủ nơi Con Ngài nhập thể. Do đó, tất cả chúng ta đều được mời gọi sống sự thật. Nơi đâu sự láo khoét và không thật được gieo rắc, thì ở đó sự nghi ngờ và chia rẽ phồn thịnh. Sự tham nhũng và những lèo lái chính trị hay ý thức hệ, cũng hoàn toàn nghịch lại sự thật: chúng tấn công vào chính những nền tảng của sự hoà hợp xã hội và ảnh huởng không tốt trên khả thể xây dựng những tương quan xã hội hoà bình.
Sự tha thứ, thay vì ngăn trở việc đi tìm sự thật, thì ngược lại đòi buộc ta phải đi tìm sự thật. Sự dữ đã được gây ra cần phải được nhìn nhận, và cần được sửa chửa càng nhiều càng tốt. Chính đòi hỏi nầy đã dẩn đưa đến việc thiết lập tại nhiều nơi trên thế giới những thể thức tương xứng để xác định sự thật đối với những tội ác giữa các nhóm chủng tộc hay quốc gia, như là bước đầu tiên tiến đến sự hoà giải. Không cần nhấn mạnh đến sự thận trọng mà mọi bên liên hệ phải tuân giữ, trong tiến trình cần thiết nầy, để đừng gia tăng sự đối nghịch, có thể làm cho sự hoà giải trở thành khó khăn hơn. Không phải là không có những trường hợp các thủ lảnh quốc gia, vì quan tâm đến điều thiện hảo căn bản là cũng cố hoà bình, nên đã đồng ý thực thi ân xá cho những ai đã công khai nhìn nhận những tội ác đã phạm trong thời gian có xung đột. Sáng kiến như vậy có thể được nhìn với nhiều thiện cảm như là cố gắng để cỗ võ những tương quan tốt đẹp giữa các nhóm truớc đó đã đối nghịch với nhau.
Một đòi hỏi thiết yếu khác nữa để tha thứ và hoà giải là sự công bằng, một sự công bằng có nền tảng cuối cùng của nó trên Luật Chúa và trên chuơng trình của ngài thực hiện yêu thương và nhân từ đối với con người. Hiểu như vậy, sự công bằng không bị giới hạn vào việc thiết lập điều gì đúng giữa các phe đang tranh chấp,nhưng còn nhìn cao hơn đến việc thiết lập lại những tương quan đối với Thiên Chúa, với chính mình và với kẻ khác. Như thế, không có sự mâu thuẩn giữa tha thứ và công bằng. Tha thứ không loại bỏ cũng không làm giãm bớt nhu cầu phải đền bù mà sự công bằng đòi hỏi, nhưng tha thứ nhằm hội nhập trở lại những cá nhân và những nhóm người vào trong xã hội, và hội nhập các quốc gia vào trong cộng đồng các Quốc Gia. Không sự trừng phạt nào có thể hủy bỏ phẩm giá không thể mất đi được của những kẻ đã làm điều xấu. Cánh cửa mở vào sự ăn năn và xây dựng lại, cần phải để luôn luôn mở rộng.
Ngày nay có biết bao hoàn cảnh đang kêu gào sự hoà giải? Ðối diện trước thách thức nầy, mà Hoà Bình tuỳ thuộc rất nhiều vào đó, Tôi kêu gọi tất cả những kẻ tin, và đặc biệt những thành phần của Giáo Hội công giáo, hãy dấn thân một cách tích cực và cụ thể, để hoạt động cho sự hoà giải.
Những ai tin đều biết rằng sự hoà giải đến từ Thiên Chúa, Ðấng luôn luôn sẳn sàng tha thứ cho những ai trở về với Ngài và từ bỏ những tội lỗi (x. Is 38,17). Tình thuơng bao la của Thiên Chúa vượt ra ngoài sự hiểu biết của con người, như Thánh Kinh đã nói như sau: Thử hỏi người mẹ có thể quên đứa con nhỏ của mình hay không? Thử hỏi có người mẹ nào không thuơng xót con mình cưu mang hay không? Cả có những người mẹ làm như vậy, nhưng Ta, Ta không quên con" (Is 49,15).
Tình yêu của Thiên Chúa là nền tảng cho sự hoà giải, mà tất cả chúng ta đều được mời gọi thực hiện." Chính Thiên Chúa tha thứ những lỗi lầm của các người, Ngài chửa lành mọi bệnh tật của các người; Thiên Chúa cứu chuộc sự sống của các người từ các nấm mộ, Ngài là Ðấng bao bọc các người trong tình thuơng và lòng nhân từ của Ngài. Ngài không đối xử với chúng ta như chúng ta đáng tội, cũng không trả đủa chúng ta như chúng ta đã phạm" ( TV 102,3-4,10).
Trong sự sẳn sàng đầy tình yêu thương để tha thứ, Thiên Chúa đã đi đến chổ trao ban chính mình cho thế gian nơi Con Một Ngài, Ðấng đã đến để mang vào ơn cứu chuộc cho từng người, cho toàn thể nhân loại. Ðứng truớc những xúc pham của con người, mà cao điểm là sự kết án ngài chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã nói: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23,34).
Thiên Chúa tha thứ nói lên lòng nhân từ yêu thương của một Người Cha. Trong dụ ngôn Phúc âm về người con đi hoang (x. Lc 15,11-32), người cha chạy ra trước đón đứa con, ngay lúc thấy con mình trở về. Nguời cha đó không để cho con mình xin lỗi: tất cả mọi sự đều được tha thứ cả ( Lc 15,20-22). Niềm vui bao la của sự tha thứ, một sự tha thứ cho đi cũng như nhận lại, chửa lành những vết thương xem ra như không còn được chửa lành nữa, thiết lập lại những tương quan và làm cho những tương quan đó được ăn rễ sâu vào trong tình yêu không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Suốt cuộc đời của mình, Chúa Giêsu đã công bố sự tha thứ của Thiên Chúa Cha, nhưng ngài cũng dạy sự cần thiết phải tha thứ cho nhau, như điều kiện để lảnh nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong lời Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện như sau: Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con ( Mt 6,12). Với lời "như"—như chúng con cũng tha--, Chúa đặt vào tay chúng ta mức độ mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa xét xử. Dụ ngôn về người đầy tớ không biết tha thứ, bị phạt vì tâm hồn chay đá của anh ta đối với người đầy tớ bạn anh, (x. Mt mt 18,23-35) dạy chúng ta rằng, những ai không muốn tha thứ, thì chính họ tự loại mình ra khỏi sự tha thứ của Thiên Chúa: Như thế, Cha Ta trên trời sẽ đối xử với chúng con như thế, nếu chúng con không thật tâm tha thứ cho anh chị em mình ( Mt 18,35).
Lời cầu nguyện của chúng ta cũng không thể nào làm vui lòng Chúa, nếu nó không đặt ở trước nó, và trong một nghĩa nào đó, nếu nó không bảo đảm thật sự là đã có một cố gắng chân thành từ phía chúng ta để hoà giải với anh chị em, những kẻ còn có điều chi bất hoà với chúng ta. Chỉ khi nào được như vậy, thì chúng ta mới có thể đến dâng cho Chúa lễ vật đẹp lòng Ngài ( x. Mt 5,23-24).
Chúa Giêsu không những đã dạy các môn đệ ngài bổn phận phải tha thứ, nhưng Chúa còn muốn cho Giáo Hội của ngài trở thành dấu chỉ và phuơng tiện thực hiện chuơng trình Hoà Giải của ngài, vừa biến Giáo Hội trở thành bí tích "của sự kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất của toàn thể nhân lọai". Trong ánh sáng của trách nhiệm nầy, Thánh Phaolô đã mô tả tác vụ tông đồ như là "tác vụ của sự hoà giải" ( x. 2 Co 5,18-20). Nhưng, trong một nghĩa nào đó, mọi người đã lảnh nhận bí tích rửa tội, phải xem mình như là "tác viên của sự hoà giải", bởi vì, một khi đã được hoà giải với Thiên Chúa và với anh chị em, người đó được gọi xây dựng hoà bình với sức mạnh của sự thật và công bằng.
Như tôi đã có dịp trình bày trong tông thư Ngàn Năm Thư Ba, những người kitô, khi họ chuẩn bị sẳn sàng để bước qua ngưởng cửa vào ngàn năm mới, ( những người Kitô) được mời gọi lặp lại lòng sám hối của họ, vì đã nhiều lần trong lịch sử họ đã lạc xa tinh thần của Chúa Kitô và Phúc âm của Người, và thay vì cung cấp cho thế giới chứng tá của một đời sống được linh ứng bởi những giá trị của đức tin, họ đã chiều theo những đường lối suy nghĩ và hành động thật sự là phản chứng và gây gương mù.
Giữa bao hình thức phản chứng và gây gương mù đó, những chia rẻ làm hại cho sự hiệp nhất của những người Kitô là điều quan trọng đặc biệt. Trong khi chúng ta chuẩn bị cử hành Ðại Năm Thánh 2000, chúng ta phải cùng nhau xin Chúa Kitô tha thứ, vừa xin Chúa Thánh Thần ban cho ơn Hiệp Nhất hoàn toàn. "Cuối cùng, sự hiệp nhất là hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chúng ta được yêu cầu đáp lại hồng ân nầy một cách có trách nhiệm, mà không gây hại cho chứng tá của chúng ta cho sự thật." (4). Hướng nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu Kitô, Sự Hoà Giải của chúng ta, trong năm thứ nhất của công cuộc chuẩn bị cho Năm Thánh, chúng ta hãy làm tất cả những gì có thể, nhờ qua lời cầu nguyện, chứng tá và hành động, để tiến tới sự hiệp nhất nhiều hơn. Ðiều nầy không khỏi gây ảnh hưởngtích cực trên những diển tiến thực hiện Hoà Bình đang diển ra tại nhiều nơi trên thế giới.
Vào tháng 6 năm 1997, các Giáo Hội tại Âu Châu sẽ họp Ðại Hội Ðại Kết Lần Thứ Hai tại GRAZ, về chủ đề " Sự HoàGiải, Hồng Ân của Thiên Chúa và nguồn mạch cho sự sống mới. Ðể chuẩn bị cho cuộc họp nầy, các vị chủ tịch của các Hội Ðồng của những Giáo Hội tại Âu Châu và Liên Hội Ðồng Giám Mục Âu Châu, đã công bố sứ điệp chung kêu gọi mọi người hãy dấn thân lại lần nữa để thực hiện Hoà Giải, hồng ân của Thiên Chúa cho chúng ta và cho toàn thể tạo vật. Các vị đã lập danh sách vài trách vụ trong số nhiều trách vụ đang chờ đợi các cộng đoàn giáo hội: đó là trách vụ đi tìm một sự hiệp nhất hữu hình hơn, và dấn thân phục vụ cho sự hoà giải các dân tộc. Ước cho lời cầu nguyện của tất cả mọi người Kitô nâng đỡ cho những việc chuẩn bị tại các giáo hội điạ phương cho cuộc họp nầy và cỗ võ những hành động hoà giải cụ thể trên toàn Châu Âu, mở đường cho những cố gắng tương tự trên các đại lục khác.
Trong tông thư Ngàn năm Thứ Ba, tôi cũng đã nói lên niềm hy vọng sống động sao cho dọc theo con đường dẩn đến năm 2000, những người Kitô sẽ lấy Kinh Thánh làm nguồn cảm hứng liên lỉ làm điểm quy chiếu cho đời sống họ. Chủ đề hết sức nổi bậc để hướng dẩn cuộc hành trình nầy có thể là chủ để về sự tha thứ và hoà giải, để mọi người suy niệm và sống trong những hoàn cảnh cụ thể của từng người và từng cộng đoàn.
Tôi muốn kết thúc sứ điệp nầy, sứ điệp mà tôi gởi đến những kẻ có niềm tin và tất cả những người thiện chí, để cử hành Ngày Quốc Tế Hoà Bình, (tôi muốn kết thúc) với lời kêu gọi mọi người hãy trở thành dụng cụ của Hoà Bình và Hoả Giải.
Trước hết, thưa các chư huynh trong hàng giám mục và các linh mục thân mến, tôi muốn ngỏ lời với anh em: hãy trở thành tấm gương phản ánh tình thuơng nhân từ của Thiên Chúa, không những chỉ trong cộng đoàn giáo hội mà thôi, mà còn trong xã hội hôm nay nữa, nhất là tại những nơi nào mà sự xung đột vì tinh thần quốc gia quá khích và xung đột chủng tộc, đang bùng nổ. Mặc cho những đau khổ mà anh em có thể chịu, anh em đừng để cho sự hận thù xâm nhập vào trong tâm hồn mình, nhưng hãy vui mừng rao giảng Phúc Âm của Chúa Kitô và phân phát sự tha thứ của Thiên Chúa nhờ qua bí tích Hoà Giải.
Hởi những bậc làm cha mẹ, những nhà giáo dục đầu tiên của con cái trong Ðức Tin, tôi xin anh chị em hãy giúp cho con cái biết nhìn tất cả mọi người như là những anh chị em của chúng, biết đến với kẻ khác mà không e dè thành kiến, với thái độ tin tưởng và đón nhận. Anh chị em hãy phản chiếu cho con cái anh chị em nhìn thấy tình yêu thuơng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Hãy cố gắng hết sức mình để tạo ra một gia đình hiệp nhất và hoà hợp.
Và anh chị em, những nhà giáo dục, anh chị em được gọi dạy cho những người trẻ biết những giá trị đích thực của sự sống, bằng cách hướng dẩn họ đi vào tính cách phức tạp của lịch sử và của nền văn hoá nhân lọai. Xin hãy giúp cho những người trẻ biết sống những nhân đức như bao dung, thông cảm và kính trọng trong mọi hoàn cảnh; hãy nêu cao cho các bạn trẻ nhìn thấy những gương tốt của những kẽ đã dấn thân xây dựng hoà bình và hoà giải.
Và chúng con, hởi nhữngngười trẻ, chúng con có niềm hy vọng cao cả trong tâm hồn, chúng con hãy học sống với nhau trong hoà bình, mà không xây lên những ranh giới ngăn cản không cho chúng con chia sẽ những kho tàng của các nền văn hoá và truyền thống khác. Hãy đáp lại những bạo lực bằng những công việc của hoà bình, để xây dựng một thế giới được hoà giải và hoàn toàn nhân đạo.
Hởi những con người nam nữ trong đời sống công cộng, anh chị em được mời gọi phục vụ cho công ích, xin dừng lọai bỏ bất cứ ai ra khỏỉ mối quan tâm của anh chị em. Anh chị em hãy chăm sóc đặc biệt cho những thành phần yếu kém nhất của xã hội. Ðừng đặt lợi lộc riêng của mình lên trên moị sự; đừng chiều theo sức thu hút của sự hối lộ tham nhũng và trên hết mọi sự hãy đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn nhất, với vũ khí Hoà bình và hoà giải.
Và các bạn, những người họat động trong các phuơng tiện truyền thông, tôi xin các bạn hãy nghĩ đến những trách nhiệm cao cả mà nghề nghiệp của các bạn mặc lấy, và đừng bao giờ trở thành kẻ cỗ võ cho những sứ điệp có mang dấu vết của hận thù, bạo lực hay giả dối. Hãy luôn luôn ghi nhớ sự thật về nhân vị con người, mà những phuơng tiện đầy quyền năng của truyền thông muốn phục vụ cho.
Cuối cùng, với tất cả những ai tin vào Chúa Kitô, tôi xin mời gọi họ hãy trung thành bước đi trên con đường tha thứ và hoà giải, vừa kết hiệp với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa Cha xin cho tất cả được nên một ( x. Jn 17,21). Và tôi khuyến khích anh chị em hãy kèm theo lời cầu nguyện liên lỉ cho hoà bình nầy bằng những hành động của tình huynh đệ và của sự chấp nhận lẩn nhau.
Với mọi người thiện chí, sẳn sàng họat động không mệt mõi để xây dựng nền văn minh mới của tình thuơng, tôi xin nói một lần nữa rằng: hãy cống hiến sự tha thứ và lảnh nhận hoà bình.
Vatican, ngày 8 tháng 12 năm
1996
Ký tên, Gioan Phaolô II, giáo hoàng.