Sứ Ðiệp Hoà Bình 1998

Prepared for internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines

Sứ Ðiệp Hòa Bình cho Năm 1998.

"Từ sự công bằng của từng người, mà phát sinh hòa bình cho tất cả", đó là chủ đề của sứ điệp của ÐTC Gioan Phaolô II cho Ngày Quốc Tế Hòa Bình lần thứ 31, sẽ được cử hành vào ngày 1 tháng giêng năm 1998. Sứ điệp Hòa Bình nầy sẽ được ÐHY Roger ETCHEGARAY giới thiệu cho giới báo chí tại Roma, vào ngày thứ ba tới, 16 tháng 12.

Chính Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã thiết lập ngày Quốc Tế Hòa Bình cách đây 30 năm. Ngày 8 tháng 12 năm 1967, Ngài đã gởi cho toàn thể Giáo Hội và tất cả mọi người thiện chí, sứ điệp Hòa Bình cho Ngày Quốc Tế Hòa Bình lần thứ nhất, được cử hành vào ngày mùng 1 tháng giêng năm 1968. Từ đó đến nay, mỗi năm, vào ngày mùng 1 tháng giêng, toàn thể Gíao Hội Công Giáo khắp nơi, đều cử hành ngày Quốc Tế Hòa Bình, vừa suy tư theo một đề tài, được ÐTC trình bày trong một sứ điệp.

Trong cuộc họp báo sáng thứ Ba 16/12/1997, tại Phòng Báo Chí của Tòa Thánh, ÐHY Roger Etchegaray, chủ tịch Hội Ðồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình đã giới thiệu Sứ Ðiệp Hòa Bình thứ 31 của ÐTC Gioan Phaolô II, cho ngày Quốc Tế Hòa Bình sẽ được cử hành vào ngày mùng 1 tháng Giêng năm 1998. Ðức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Phó Chủ Tịch Hội Ðồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình cũng có mặt trong buổi họp báo nầy. Sứ điệp Hòa Bình có chủ đề chung là: Từ Sự Công Bằng của Mỗi Một Nguời, phát sinh Hòa Bình cho Tất cả. Công bằng luôn đi đôi với Hòa Bình. Nếu một trong hai (công bằng hay hòa bình) bị đe dọa hay bị suy sụp thì cả hai (hòa bình và công bằng) cùng bị đe dọa hay suy sụp theo. ÐTC Gioan Phaolô II nhấn mạnh đến "trách nhiệm" của từng người, và của tất cả mọi người hãy thực thi công bằng và như thế mở đường cho Hòa Bình. ÐTC cũng khuyến khích mọi người hãy dấn thân phát triển một nền văn hóa của luật pháp, biết tôn trọng luật pháp trong những sinh họat của quốc gia và giữa các quốc gia. Trong sứ điệp, ÐTC Gioan Phaolô II cũng lưu ý mọi người rằng sự tham nhũng, nhất là việc xử dụng dối trá công quỷ - góp phần gia tăng nạn nghèo cùng và gây ra những bất công làm phát sinh ra những cuộc xung đột chính trị tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trong bài giới thiệu sứ điệp của ÐTC, ÐHY Roger Etchegaray cũng đã lưu ý đến khía cạnh nầy và quả quyết rằng ÐTC Gioan Phaolô II muốn nhắm đến những vị lãnh đạo các chính phủ chiều theo sự tham những. Nguời ta không thể nào xây dựng một nền văn hóa của Hòa Bình và công bằng, mà không dấn thân xây dựng trật tự và sự thật trong những việc nước. Nhận thấy tính cách khó khăn phức tạp của chiến dịch chống nạn tham nhũng, bởi vì tham nhũng có thể mặc lấy rất nhiều hình thức khác nhau, ÐTC kêu gọi các dân tộc trên thế giới hãy loại bỏ mọi thái độ dung nhượng đối với hàng lãnh đạo tham nhũng. Tiến trình để loại bỏ hàng lãnh đạo tham nhũng sẽ là tiến trình của một chiến dịch giáo dục quần chúng và thức tỉnh các lương tâm. ÐTC cũng khuyến khích các vị thủ lãnh quốc gia cũng như tất cả mọi công dân, hãy góp phần xây dựng một nền văn hóa dựa trên tình liên đới, một tình liên đới có thể đặt nền tảng vững chắc cho công bằng và hòa bình.

Cũng trong cuộc họp báo sáng hôm qua, thứ ba 16/12, ÐHY Roger Etchegaray cũng đã loan báo rằng vào tháng Giêng năm 1998, Hội Ðồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình sẽ công bố một văn kiện bàn về vấn đề cải cách Ruộng Ðất tại những quốc gia đang trên đường phát triển.

Nguyên văn bản dịch tiếng Việt Sứ Ðiệp Hoà Bình 1998

Nhập đề

1. Từ sự công bằng của mỗi một người, phát sinh hòa bình cho tất cả. (nói cách khác: mỗi người cần thực thi công bằng, để tất cả mọi người được hưởng hòa bình).

Công bằng đồng hành với Hòa Bình và thiết lập với Hòa Bình một mối tương quan liên lỉ và sinh động. Công bằng và Hòa Bình đều nhắm đến điều lợi ích của mỗi một người và của tất cả mọi người, và vì thế, Công Bằng và Hòa Bình đòi phải có trật tự và sự thật. Khi một trong hai bị nguy hiểm, thì cả hai đều bị nguy chung. Khi nguời ta xúc phạm đến công bằng, thì người ta cũng gây nguy hiểm cho hòa bình. Có một tương quan chặt chẽ giữa sự công bằng của mỗi một người và hòa bình của tất cả mọi người. Và chính vì thế , mà với sứ điệp nầy cho Ngày Quốc Tế Hòa Bình, tôi muốn ngỏ lời trước hết với các vị thủ lãnh các quốc gia, với ý thức rằng thế giới ngày nay, dù bị ghi dấu nơi nhiều vùng, bởi những căng thẳng, bạo lực và xung đột, nhưng vẫn còn đi tìm những khả thể mới và những quân bằng có tính cách ổn định hơn, để nhằm tới một nền hòa bình đích thực và lâu dài cho toàn thể nhân loại. Công bằng và hòa bình không phải là những quan niệm trừu tượng hay là những lý tưởng xa xôi. Ðây là những giá trị nằm sẵn, như là phần gia tài chung, trong con tim của mỗi người. Các cá nhân, gia đình, cộng đoàn và quốc gia, tất cả đều được gọi sống trong công bằng và thực hiện hòa bình. Không ai có thể chuẩn cho mình khỏi trách nhiệm nầy. Trong lúc nầy, tư tưởng tôi hướng đến tất cả những ai bị rơi vào, dù họ không muốn, rơi vào trong những cuộc xung đột tang thương, cũng như đến những kẻ bị loại ra ngoài lề, những người nghèo, và những nạn nhân của mọi hình thức bóc lột. Ðó là những con người cảm nghiệm được trong chính thân thể họ, sự thiếu vắng của hòa bình và những hậu quả chua chát của bất công. Ai có thể sống dửng dưng trước khao khát của họ có được một cuộc sống ăn rể sâu trong sự công bằng và hòa bình đích thực? Trách nhiệm của tất cả là phải làm sao cho điều nầy được trao ban cho họ: sự công bằng đầy đủ không thể nào có được, nếu khi mà tất cả không được hưởng công bằng như nhau. Sự công bằng là nhân đức luân lý vừa đồng thời là một quan niệm pháp lý. Ðôi khi người ta trình bày sự công bằng với đôi mắt bị bịt lại. Trong thực tế, công bằng có bổn phận phải chú ý và canh chừng để bảo đảm sự quân bình giữa các quyền lợi và những bổn phận, cũng như trong việc cổ võ sự chia sẻ đều nhau về những giá hy sinh và những lợi lộc. Công bằng thiết lập lại, chớ không phá hủy. Giải hòa hơn là thôi thúc trả thù. Nếu nhìn kỷ, thì gốc rễ của công bằng nằm nơi tình thương, một tình thương được thể hiện một cách đầy ý nghĩa trong sự nhân từ. Nếu công bằng mà bị tách rời ra khỏi tình thương nhân từ, thì trở thành lạnh lùng và chua chát (déchirante). Sự công bằng là một nhân đức sinh động và sống động. Nó bảo vệ và cổ võ phẩm giá vô cùng của con người và lo lắng cho công ích, vì là kẻ giữ gìn những tuơng quan giữa các ngôi vị và dân tộc. Con người không sống riêng rẽ một mình, nhưng ngay từ giây phút đầu tiên được hiện hữu, con người nằm trong tương quan với kẻ khác rồi, đến độ điều lợi ích của cá nhân và của xã hội, cùng tiến chung với nhau: có một tương quan quân bình tế nhị của cả hai khía cạnh nầy.

Công bằng được đặt nền tảng trên sự kính trọng những nhân quyền.

2. Ngôi vị con người tự bản tính là chủ thể của những quyền lợi phổ quát, không thể bị xúc phạm, không hề thay đổi. Tuy nhiên, những quyền lợi trên không hiện hữu một mình. Về vấn đề nầy, Ðức Gioan 23 ,vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, đã dạy rằng ngôi vị con người có những quyền lợi và những bổn phận phát sinh trực tiếp và đồng thời từ chính bản tính của mình. Chính trên nền tảng nhân luận đúng đắn của những quyền lợi và bổn phận cũng như trên mối tương quan nội tại giữa quyền lợi và bổn phận mà hòa bình được xây dựng vững chắc. Trong những thế kỷ qua, những quyền lợi của con người đã được công thức hóa trong những tuyên ngôn quy phạm khác nhau, cũng như trong những phương tiện pháp lý có tính cách trói buộc phải tuân giữ. Việc công bố những nhân quyền, trong lịch sử của những dân tộc và những quốc gia đang đi tìm công bằng và tự do, được nhắc đến một cách hãnh diện xứng đáng, bởi vì biến cố đó thường được trải qua như là một điểm thay đổi tiếp theo sau những xúc phạm hiển nhiên đối với phẩm giá của từng người và của trọn cả dân tộc. Cách đây 50 năm, sau cuộc chiến được ghi dấu bởi sự chối bỏ cả quyền sống của một vài dân tộc, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc đã công bố Tuyên Ngôn Phổ Quát về Nhân Quyền. Ðó là một hành động long trọng, mà người ta đạt đến được, sau kinh nghiệm đau buồn về chiến tranh, được thôi thúc bởi ước muốn nhìn nhận một cách chính thức những quyền lợi như nhau cho mọi người, mọi dân tộc. Trong văn bản đó, người ta đọc được lời quả quyết sau đây, lời quả quyết có giá trị vượt thời gian: "Việc nhìn nhận phẩm giá có sẵn nơi mọi thành phần của gia đình nhân loại và nhìn nhận những quyền lợi như nhau và không thể bị xúc phạm của họ, việc nhìn nhận đó là nền tảng của tự do, của công bằng và hòa bình trong thế giới." Và những lời kết thúc bản Tuyên Ngôn cũng đáng chúng ta chú ý như sau:" Không một điều gì trong bản Tuyên Ngôn nầy có thể được giải thích theo nghĩa mặc cho bất cứ quốc gia nào, hay nhóm người hay cá nhân nào có quyền thi hành một chương trình hoặc chu toàn một hành động nhằm hủy hoại bất cứ quyền lợi và sự tự do nào được công bố trong bản Tuyên Ngôn nầy." Thật là điều bi thảm, việc cả trong ngày nay bản quy định trên hoặc bị vi phạm một cách ngấm ngầm bằng cuộc đàn áp, bằng những xung đột, bằng sự tham nhũng hay, một cách tinh vi hơn, bằng cách cố gắng giải thích lại, hay cố ý làm sai lạc ý nghĩa, chính những định nghĩa có mặt trong bản Tuyên Ngôn Phổ Quát. Bản Tuyên Ngôn nầy cần được tuân giữ trọn vẹn, trong tinh thần cũng như trong bản văn. Bản Tuyên Ngôn nầy, như Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã tuyên bố, phải luôn là một trong những Văn Bản Nguyên Tắc làm hãnh diện Liên Hiệp Quốc, "nhất là khi người ta nghĩ đến tầm quan trọng của nó như là con đường chắc chắn dẫn đến hòa bình". Nhân dịp kỷ niệm 50 năm bản Tuyên Ngôn Phổ Quát về Nhân Quyền, được cử hành trong năm nay (1998), thì quả thật là điều hợp thời để nhắc lại rằng "việc cổ võ và bênh vực những nhân quyền là điều có tầm quan trọng ưu tiên trong cộng đồng quốc tế." Tuy nhiên, có vài bóng tối vây phủ lấy việc kỷ niệm nầy, vì những e dè đặt vấn đề đối với hai đặc điểm thiết yếu của chính quan niệm về nhân quyền: đó là đặc tính phổ quát và không thể phân chia của những nhân quyền đó. Hai đặc tính nầy cần được xác định một cách mạnh mẽ, để loại bỏ những công kích phê bình của những ai muốn dùng đến lý luận dựa trên sự khác biệt riêng về văn hóa mà che đậy những vi phạm nhân quyền, cũng như của những ai làm yếu đi quan niệm về phẩm giá con người, bằng cách chối bỏ thực lực pháp lý của những quyền lợi xã hội, kinh tế và văn hóa. Ðặc tính phổ quát và bất khả phân chia là hai nguyên tắc hướng đạo; hai nguyên tắc nầy đòi buộc những nhân quyền phải được ăn rễ sâu vào trong từng nền văn hóa và rằng thực lực pháp lý của những nhân quyền đó phải được cũng cố, để bảo đảm sao cho những nhân quyền đó được tuân giữ trọn vẹn. Việc kính trọng những quyền lợi của con người không thể chỉ liên quan đến việc bảo vệ chúng trên bình diện pháp lý suông mà thôi, nhưng còn phải lưu ý đến tất cả mọi khía cạnh phát sinh từ quan niệm về phẩm giá con người; phẩm giá nầy nằm ở nền tảng của mọi quyền lợi. Trong viễn tượng nầy, cần chú tâm đến công tác giáo dục. Ngoài ra, cũng cần quan tâm đến việc cổ võ những nhân quyền; việc cổ võ nầy là hoa trái của tình yêu thương đối với con người xét như là người, bởi vì "tình thương vượt qua hơn những gì mà công bằng có thể mang đến". Trong khung cảnh của việc cổ võ nhân quyền, người ta phải cố gắng nhiều hơn nữa để bảo vệ những quyền của gia đình, tế bào tự nhiên và căn bản của xã hội".

Toàn cầu hóa trong tình liên đới

3. Những thay đổi to lớn trên bình diện chính trị và địa dư tiếp sau năm 1989 đã kéo theo những cuộc cách mạng thật sự trong lãnh vực xã hội và kinh tế. Việc toàn cầu hóa nền kinh tế và tài chánh giờ đây là một thực tại và càng ngày chúng ta càng biết rõ những hậu quả của tiến bộ mau chóng trong lãnh vực những kỹ thuật thông tin. Chúng ta đang ở nơi ngưỡng cửa của một thời đại mới, có mang theo những niềm hy vọng to lớn và những câu hỏi đầy lo âu. Ðâu là hậu quả của những thay đổi đang diễn ra? Liệu mọi nguời sẽ có đủ khả năng để hưởng lấy những điều tốt của thị trường toàn cầu? Liệu mọi người sẽ có cơ may hưởng được hòa bình? Liệu những tương quan giữa các Quốc Gia sẽ trở nên công bằng hơn, hay là những cạnh tranh kinh tế và tranh chấp giữa các dân tộc và quốc gia lại đưa nhân loại đến hoàn cảnh sống bất ổn nhiều hơn nữa? Ðể có một xã hội công bằng hơn và một nền hòa bình vững bền hơn trong một thế giới đang tiến đến việc toàn cầu hóa, thì bổn phận khẩn thiết của những Tổ Chức Quốc Tế là giúp cổ võ một ý thức trách nhiệm đối với công ích. Nhưng để đạt đến điều nầy, chúng ta không bao giờ được bỏ quên ngôi vị con người; ngôi vị nầy phải nằm ở trung tâm của mọi dự án xã hội. Chỉ như thế thì Liên Hiệp Quốc mới trở thành "đại gia đình của các dân tộc", phù hợp với sứ mạng nguyên thủy của nó là "cổ võ tiến bộ xã hội và mức sống tốt hơn trong sự tự do rộng rãi hơn". Ðây là con đường để xây dựng một cộng đồng thế giới dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, nâng đỡ lẫn nhau và thành thật kính trọng nhau". Tắt một lời, thách thức cho chúng ta là bảo đảm sao cho có được một việc toàn cầu hóa trong tình liên đới, một việc toàn cầu hóa mà không có việc loại ra bên lề. Ðây là một bổn phận rõ ràng của công bằng, với những đòi buộc nghiêm trọng trên bình diện luân lý, trong việc tổ chức sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị của các quốc gia.

Gánh nặng nề của nợ nước ngoài

4. Nhiều quốc gia và nhiều vùng trên thế giới, vì khả năng kinh tế và tài chánh yếu kém, đang gặp nguy hiểm bị loại ra khỏi một nền kinh tế đang được toàn cầu hóa. Nhiều quốc gia khác, có nhiều tài nguyên hơn, nhưng tiếc thay không thể khai thác chúng vì nhiều lý do: vì những những xáo trộn, những xung đột nội bộ, vì thiếu cơ sở tương xứng, vì sự tồi tệ môi sinh, vì nạn tham nhũng phổ biến, vì nạn phạm pháp và nhiều lý do khác nữa. Việc toàn cầu hóa cần được đi đôi với tình liên đới. Nguời ta cần gởi đến những trợ giúp đặc biệt, mà nhờ đó những quốc gia nào không thể thành công bước vào trong nền kinh tế thị trường, với sức lực riêng của họ, thì có thể nhờ những trợ giúp đó để vượt qua được hoàn cảnh bất lợi hiện tại của họ. Ðây là điều mà sự công bằng đòi buộc phải làm cho những quốc gia yếu kém đó. Trong một đại gia đình đích thực các Quốc Gia, thì không nên để một quốc gia nào đó bị loại ra ngoài; ngược lại, cần phải nâng đỡ cho quốc gia yếu kém nhất, mỏng dòn nhất, ngỏ hầu quốc gia đó có thể phát triển những khả thể riêng của mình. Ðến đây, tâm tư tôi hướng đến một trong những khó khăn to lớn mà các quốc gia nghèo nhất ngày nay phải đương đầu. Tôi muốn nói đến gánh nặng nề của nợ nước ngoài, một gáng nặng gây thiệt thòi cho các nền kinh tế của trọn cả bao dân tộc, vừa chận lại tiến bộ xã hội và chính trị của những dân tộc đó. Về vấn đề nầy. Vài sáng kiến mới đây của các cơ quan tài chánh quốc tế đã bắt đầu chương trình quan trọng để giãm bớt các món nợ trong trật tự. Tôi hết lòng mong ước người ta tiếp tục đi trên con đường nầy, vừa áp dụng một cách mềm dẻo những điều kiện đã định trước, sao cho tất cả các quốc gia nào có quyền được hưởng sự giảm nợ, thì có thể hưởng được lợi ích đó trước năm 2000. Những quốc gia giàu có hơn có thể thực hiện nhiều điều trong chiều hướng nầy, vừa nâng đỡ cho việc thi hành những sáng kiến giãm nợ như vừa nói trên. Vấn đề nợ nần là thành phần của một vấn đề rộng rãi hơn: vấn đề kéo dài nạn nghèo cùng, đôi khi nghèo đến mức cuối cùng, và vấn đề phát sinh những bất bình đẳng mới đi kèm với diễn tiến toàn cầu hóa. Nếu mục tiêu nhắm tới là việc toàn cầu hóa mà không gây ra việc loại ra bên lề, thì người ta không thể nào chấp nhận nữa một thế giới trong đó những người hết sức giàu và những kẻ nghèo cùng sống song song bên cạnh nhau như vậy, những kẻ không có gì cả, kể cả những gì hết sức thiết yếu để sống còn, bên cạnh những kẻ giàu không chút quan tâm phung phí những gì kẻ khác hết sức cần đến. Những cảnh trái nghịch như vậy là một xúc phạm đối với phẩm giá con nguời. Chắc chắn rằng không thiếu những phuơng tiện tương xứng để loại bỏ sự nghèo cùng, chẳng hạn như việc cổ võ những đầu tư đều đặn trên bình diện xã hội và sản xuất, từ phía những cơ quan kinh tế quốc tế. Ðiều nầy giả thiết rằng những cộng đồng quốc tế muốn hành động với một quyết tâm cần thiết. Những bước đáng ca ngợi trong chiều hướng nầy đã được thực hiện rồi, nhưng một giải pháp lâu dài đòi hỏi cố gắng chung của tất cả mọi người, kể cả cố gắng của những chính phủ có liên hệ.

Cần thiết phải có một nền văn hóa tôn trọng luật pháp

5. Và giờ đây phải nói gì về những bất bình đẳng trầm trọng hiện có bên trong nội bộ các quốc gia? Những hoàn cảnh nghẻo đến mức tận cùng, bất luận chúng xuất hiện nơi đâu, đều kết thành sự bất công đầu tiên. Việc loại bỏ những cảnh sống nghèo cùng đó phải là điểm ưu tiên của tất cả mọi người, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. Chúng ta cũng không thể nào im lặng trước nạn tham nhũng, đang làm hư đi sự phát triển xã hội và chính trị của biết bao dân tộc. Ðây là một hiện tượng càng ngày càng tăng, và thấm vào trong nhiều lãnh vực xã hội, vừa khinh thường luật pháp và không biết gì đến những quy luật của công bằng và sự thật. Nạn tham nhũng là điều rất khó chống lại, vì nó mặc lấy rất nhiều hình thức: khi bị dẹp tắt ở nơi nầy, thì nó lại xuất hiện tại nơi khác. Cần phải có can đảm, dù chỉ mới tố cáo tham nhũng mà thôi. Sau đó, để dẹp tan nó hoàn toàn, thì cần có ý chí cương quyết của Nhà Cầm Quyền, cùng với sự ủng hộ quảng đại của tất cả mọi người dân, với một lương tâm luân lý mạnh mẽ. Một trách nhiệm lớn trong cuộc chiến chống nạn tham nhũng nằm trên vai của những ai có chức vụ công quyền. Họ có trách vụ dấn thân để áp dụng luật pháp như nhau cho tất cả và thực hiện sự trong sáng trong tất cả mọi hành vi quản trị. Ðược đặt lên để phục vụ cho người dân, Nhà Nước là người quản lý những tài nguyên của dân chúng, và Nhà Nước phải quản trị những tài nguyên đó nhằm đạt đến công ích. Một chính phủ tốt đòi buộc phải có những kiểm soát đúng đắn và một sự thành thực hoàn toàn trong mọi hành vi kinh tế và tài chánh. Không thể nào cho phép những tài nguyên nhằm phục vụ công ích, lại trở thành phục vụ cho những lợi ích khác có tính cách riêng tư hay tệ hơn có tính cách phạm pháp. Việc xử dụng gian trá những đồng tiền của chung, làm thiệt thòi cho những người dân nghèo, vì họ là những kẻ đầu tiên phải chịu thiếu những dịch vụ căn bản cần thiết để phát triển chính mình. Khi mà nạn tham nhũng len lỏi vào được trong việc thi hành sự công bằng, thì lại là những người nghèo phải mang lấy những hậu quả nặng nề, vì những chậm trễ rong việc thi hành công bằng, những sự không hữu hiệu, những thiếu thốn cơ cấu, sự thiếu thốn không được bênh vực tương xứng. Những người dân nghèo như vậy không thể làm gì khác hơn là đành chịu đau khổ vì sự lạm dụng quyền hành.

Những hình thức bất công trầm trọng

6. Còn có những hình thức bất công khác nữa gây nguy hiểm cho nền hòa bình. Tôi muốn nhắc lại nơi đây hai hình thức sau đây. Hình thức thứ nhất là sự thiếu những phương tiện để mọi người dân đều có thể vay mượn vốn làm ăn. Người dân nghèo thường bị bó buộc phải đứng ngoài không được hưởng hệ thống kinh tế thông thường, hay bị rơi vào tay của những kẻ cho vay tiền không có lương tâm đòi hỏi mức lời quá cao, làm cho hoàn cảnh đã mong manh của họ trở thành tồi tệ hơn. Vì thế, bổn phận của tất cả là phải làm sao ngỏ hầu người dân nghèo có thể hưởng được việc vay mượn tiền một cách công bằng và với mức tiền lời có thể trả được. Hiện nay, tại nhiều nơi trên thế giới, đã có những cơ quan tài chánh thực hiện việc cho vay những món tiền nhỏ, với những điều kiện có lợi cho người cần vay tiền. Ðây là những sáng kiến cần được khuyến khích, bởi vì chính theo con đường nầy mà người ta có thể đạt đến việc loại bỏ hẳn tận gốc rễ việc đáng xấu hổ là "cho vay ăn lời cắt cổ", bằng cách làm cho những phương tiện kinh tế cần thiết cho việc phát triển gia đình và cộng đồng, trở thành sẵn sàng cho tất cả mọi người khi cần đến. Và phải nói gì nữa về sự gia tăng nạn bạo lực đối với những người phụ nữ, và những trẻ em nam nữ? Ngày nay, đây là một trong những sự vi phạm rộng rải nhất về những quyền của con người, một sự vi phạm trở thành phương tiện khủng bố: những người phụ nữ bị bắt làm con tin, những thanh thiếu niên bị sát hại một cách dã man. Thêm vào đó là bạo lực của nạn cưỡng bức mãi dâm và nạn dâm ô trên những trẻ vị thành niên, cũng như nạn lạm dụng lao động những trẻ nhỏ trong những hoàn cảnh nô lệ thật sự. Ðể góp phần chận đứng lại sự bành trướng những hình thức bạo lực nầy, cần phải có những sáng kiến cụ thể, đặc biệt là cần những phương tiện luật pháp thích hợp trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. Ngoài ra, cần phải có công việc dấn thân mạnh mẽ trong lãnh vực giáo dục và cổ võ văn hóa, ngỏ hầu, như tôi đã thường nhắc đến trong các sứ điệp hòa bình trước đây, nguời ta biết nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá của mỗi một người. Thật vậy, một yếu tố không thể nào bị thiếu trong phần gia tài luân lý và văn hóa của toàn thể nhân loại và của từng người: đó là ý thức rằng mọi cá nhân đều bằng nhau trong phẩm giá, và đáng được tôn trọng như nhau, và là những chủ thể của cùng quyền lợi và bổn phận.

Xây đựng Hòa Bình trong công bằng là dấn thân của tất cả và của từng người

7. Hòa bình cho tất cả được phát sinh từ sự công bằng của từng người. Không ai có thể rút lui trước một sự dấn thân có tầm quan trọng quyết định như vậy đối với nhân loại. Sự dấn thân nầy kêu gọi mọi người nam nữ, hãy đóng góp tùy theo những khả năng chuyên môn và tùy trách nhiệm riêng. Thưa quý vị Nguyên Thủ Quốc Gia và quý vị chịu trách nhiệm các Quốc Gia, Tôi xin ngỏ lời kêu gọi đến quý vị, những kẻ đã được trao phó cho trách vụ tối cao canh chừng về tình hình các nhân quyền tại mỗi quốc gia. Chu toàn trách vụ cao cả như vậy không phải là điều dễ dàng, nhưng đó là một trong những trách vụ ưu tiên của quý vị. Ước gì những định chế của các quốc gia mà quý vị phục vụ cho, có thể kết thành sự bảo đảm cho dân chúng được hưởng công bằng, và khuyến khích làm cho ý thức dân sự của dân chúng được lớn lên luôn mãi. Xây dựnghòa bình trong công bằng, ngoài ra, còn đòi hỏi sự đóng góp của mọi thành phần xã hội, mỗi người trong lãnh vực riêng và trong sự góp sức chung với những thành phần khác của cộng đoàn. Một cách đặc biệt, tôi xin khuyến khích quý vị, những thầy cô, dấn thân trong mọi cấp bực giảng dạy và giáo dục cho các thế hệ mới: xin hãy huấn luyện họ theo những giá trị luân lý và dân sự, vừa in vào tâm trí họ một ý thức bén nhạy về các quyền lợi và bổn phận, bắt đầu từ chính lãnh vực môi trường học đường. Giáo dục sống công bằng để giáo dục sống hòa bình: đó là một trong những trách vụ ưu tiên của quý vị. Trong lãnh vực giáo dục, người ta không thể nào thay thế vai trò của gia đình, là môi trường ưu tiên cho việc huấn luyện nhân bản của những thế hệ mới. Hỡi những bậc làm cha mẹ, từ mẫu gương của các người mà tùy thuộc phần lớn dung mạo luân lý của con cái; và con cái sống theo dung mạo luân lý đó từ mẫu mực những tương quan mà các bậc làm cha mẹ đặt ra ở bên trong cũng như bên ngoài đơn vị gia đình. Gia đình là trường học đầu tiên của sự sống, và ảnh hưởng lãnh nhận từ gia đình có tính cách quyết định cho tương lai phát triển của ngôi vị con người. Hỡi những người trẻ trên thế giới, cha xin nói với các con, những kẻ tự nhiên khao khát công bằng và hòa bình, (cha xin nói với chúng con) rằng: chúng con hãy luôn luôn gìn giữ cho sống động mãi ý hướng chúng con hướng về các lý tưởng, và chúng con hãy kiên nhẫn và bền tâm theo đuổi những lý tưởng đó, trong những hoàn cảnh cụ thể trong đó chúng con sinh sống. Chúng con hãy sẵn sàng đẩy lui những cám dỗ muốn đi theo những ngã tắt bất hợp pháp để tiến tới những hình ảnh giả tạo về thành công hay sự giàu sang; ngược lại, chúng con hãy biết yêu thích điều gì là công bằng và đúng thật, cả khi việc sống theo con đường nầy đòi hỏi hy sinh và thôi thúc ta đi ngược dòng. Chính như thế thì từ sự công bằng của mỗi người mới phát sinh hòa bình cho tất cả.

Chia sẽ là con đường của Hòa Bình

8. Năm Thánh 2000 đang tiến nhanh đến chúng ta; Năm Thánh 2000, đối với các tín hữu, là thời gian dành riêng cho Thiên Chúa, Chúa của lịch sử, là một nhắc nhở cho tất cả về sự tùy thuộc căn bản của tạo vật đối với Ðấng tạo hóa. Nhưng trong truyền thống của Kinh Thánh, thì Năm Thánh cũng là thời gian giải phóng những nguời nô lệ, trả lại đất đai cho nguời chủ hợp pháp, tha đi những món nợ và thiết lập lại ngay những hình thức bình đẳng giữa tất cả mọi thành phần dân chúng. Tuy nhiên, đây cũng làm thời gian ưu tiên để thực hiện sự công bằng dẫn dắt đến tự do. Nhờ đức tin vào Thiên Chúa Tình Yêu và nhờ vào sự tham dự vào ơn cứu rỗi phổ quát của Chúa Kitô, những nguời Kitô được mời gọi sống theo công bằng và sống trong hòa bình với tất cả mọi người, bởi vì "Chúa Giêsu không chỉ trao ban cho chúng ta một sự bình an đơn thường. Chúa đã trao ban cho chúng ta sự bình an của Ngài cùng với sự công chính của Ngài. Bởi vì Chúa là đấng Hòa Bình và công bằng, nên ngài có thể trở thành nền hòa bình và sự công bằng cho chúng ta". Tôi đã công bố những lời trên cách đây 20 năm, nhưng trong viễn tượng của những thay đổi tận căn đang được thực hiện, những lời đó giờ đây mặc thêm một ý nghĩa cụ thể hơn nữa và sống động hơn nữa. Một dấu chỉ để phân biệt người Kitô, ngày nay hơn bao giờ hết, phải là tình yêu thương đối với người nghèo, kẻ cô thế và những người đang đau khổ. Sống sự dấn thân thật đòi hỏi trên, thì đòi buộc một sự đảo ngược hoàn toàn những giá trị làm cho ta đi tìm điều thiện hảo chỉ cho riêng mình: đó là quyền hành, thú vui, sự làm giàu không lương tâm. Phải, những đồ đệ của Chúa Kitô được mời gọi thực hiện sự trở lại tận căn. Tất cả những ai dấn thân đi theo con đường nầy, thì sẽ cảm nghiệm được "sự công bằng, hòa bình và niềm vui trong Chúa Thánh Thần (Roma 14,17), và sẽ nếm được "hoa trái hòa bình và công bằng" (Dt 12,11). Tôi muốn đề nghị lại nơi đây cho những người Kitô thuộc mọi đại lục, lời thức tỉnh của Công Ðồng Vat II như sau: Trước hết, hãy thỏa mãn những đòi buộc của sự công bằng, ngỏ hầu nguời ta không cống hiến như là một hồng ân của đức bác ái, điều mà kẻ khác có quyền hưởng do công bằng". Một xã hội có tinh thần liên đới đích thực, được xây dựng nhờ vào sự kiện nầy là những ai có của cải, không phải chỉ lấy ra những gì là dư thừa, để giúp cho những kẻ nghèo. Hơn nữa, cung cấp những điều tốt vật chất, không đủ: cần phải có tinh thần chia sẻ, sao cho chúng ta có thể cảm thấy danh dự khi được dịp chăm sóc và chú ý đến những nhu cầu của những anh chị em gặp khó khăn. Từ phía những người Kitô cũng như từ phía những tín đồ của các tôn giáo khác, và của biết bao nguời thiện chí nam nữ, người người đều cảm thấy cần cóù một lối sống đơn sơ như là điều kiện để cho sự chia sẻ công bằng những hoa trái của tạo vật của Thiên Chúa, có thể trở thành sự thật. Ai sống trong cảnh cùng cực tột độ, không thể chờ đợi lâu hơn nữa được. Người đó cần được trợ giúp ngay bầy giờ, và do đó có quyền lãnh nhận liền ngay điều cần thiết.

Chúa Thánh Thần hoạt động trong thế giới

9. Vào Chúa Nhật I mùa Vọng, giáo hội đã bắt đầu năm thứ hai để chuẩn bị liền ngay cho Ðại Năm Thánh 2000, năm được dành cho Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần của niềm hy vọng đang hoạt động trong thế giới. Ngài hiện diện trong công việc phục vụ vô vị lợi của người làm việc bên cạnh những kẻ bị loại ra bên lề và những ai đau khổ, của ai đón nhận những người di dân và những người tị nạn, của ai có can đảm chống lại việc khước từ một nguời hay một nhóm người vì lý do chủng tộc, văn hóa và tôn giáo. Cách đặc biệt, Chúa Thánh Thần hiện diện nơi việc làm quảng đại của tất cả những ai còn kiên nhẫn vững mạnh tiếp tục cổ võ cho hòa bình và hòa giải giữa những ai đã một thời sống đối nghịch và thù hận. Ðó là những dấu chỉ hy vọng, khuyến khích đi tìm sự công bằng dẫn đến hòa bình. Con tim của sứ điệp phúc âm là Chúa Kitô, Ngài là hòa bình, là sự hòa giải cho tất cả. Ước chi dung mạo của Chúa Kitô soi sáng con đường của nhân loại, đang chuẩn bị bước qua ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba. Ước chi sự công bằng và hòa bình của Chúa, trở thành hồng ân cho tất cả, không phân biệt gì cả.

"Lúc bấy giò, sa mạc sẽ trở thành vuờn cây xanh, và vuờn cây sẽ được xem như một khu rùng. Trong sa mạc, quyền lợi sẽ cư ngụ và công bằng sẽ ngự trị trong vuờn cây xanh. Hậu quả của công bằng sẽ là Hòa Bình, hoa trái của quyền lợi là một sự yên hàn luôn mãi" (Is 32,15-17).


Back to Radio Veritas Home Page