Ðiểm Báo
về cuộc hành hương của ÐTC
tại Hy lạp- Syrie và Malta,
theo vết chân Thánh Phaolo
Prepare for Internet by Mgsr Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines
ÐIỂM BÁO
về cuộc hành hương của Ðức Gioan Phaolô II theo vết chân Thánh
Phaolô tại Hy lạp- Syrie và Malta.
Chuyến viếng thăm
của Ðức Gioan Phaolô II tại HY lạp - Syrie và Malta được khởi sự sáng
thứ sáu mồng 4/05/2001 và kết thúc vào ngày mồng 9 tháng 5 năm
2001. Theo báo chí, thì đây là một trong các chuyến viếng thăm
khó khăn hơn cả, cách riêng tại Hy lạp, nơi đây Giáo hội
chính thống từ 10 thế kỷ nay vẫn chống đối kích liệt Giáo
hội công giáo Roma. Việc chống đối này chỉ dịu đi
sau chuyến viếng thăm của ÐTC vào cuối tháng hai năm
2000 vừa qua, tại Tu viện chính thống dâng kính Thánh Catarina
thành Alexandria trên Núi Sinai, thuộc
quyền sở hữu của Giáo hội chính thống Hy lạp. Thái độ hòa
giải và khiêm tốn của ÐTC tại Tu viện đã tạo được bầu
khí mới trong mối quan hệ giữa Giáo hội chính thống Hy lạp
và và Giáo hội công giáo Roma. Tháng Giêng năm nay
(2001), Tổng thống cộng hòa Hy lạp đã viếng thăm
Vatican và chính thức mời ÐTC đến Hy lạp. Sau đó, Thánh Hội
nghị Giáo hội chính thống Hy lạp cũng tuyên bố: không cản
trở chuyến viếng thăm của Ðức Gioan Phaolô II tại Athèna, nơi đây
Thánh Phaolô Tông đồ Dân ngoại, sau khi trở lại Ðạo công
giáo, đã rao giảng Chúa Giêsu Kitô, tại Diễn Dàn, Areopagus,
trước Hội nghị của Thành phố.
Một khó khăn đã
vượt qua. Sáng thứ sáu 4/05/2001 lúc 11:15, sau khi chiếc máy bay hạ cánh
xuống phi trường quốc tế của Athènes, và sau nghi lễ chào đón
tại Phi Trường do Vị Ngoại Trưởng của Chính Phủ Hy Lạp cầm
đầu, ÐTC đã được Tổng
thống Cộng hòa tiếp đón tại Phủ Tổng thống, với sự hiện
diện của Thủ tướng chính phủ, các Bộ trưởng, Chủ tịch
Quốc hội và Ngoại giao đoàn. Không có dân chúng nhiều như
tại nhiều nơi khác, nhưng bầu khí bình thản và thân thiện.
Sau lễ nghi chào cờ
trước Phủ Tổng thống, Tổng thống giới thiệu với ÐTC các
nhân vật quan trọng trong guồng
máy Nhà nước. Tiếp đó, ÐTC giới thiệu các nhân vật thuộc
phái đoàn Tòa Thánh, gồm các
ÐHY Angelo Sodano, Quốc vụ khanh, - ÐHY
Francis Arinze, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về đối thoại
liên tôn, - ÐHY Walter Kasper, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh
vể cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, - ÐHY Roberto
Tucci, người đã có công tổ chức chuyến viếng thăm sau cùng
này, trước khi được tôn phong làm Hồng Y (ngày 21.2.2001)
và các Ðức Gím mục: ÐTGM Leonardo Sandri, Phụ tá Quốc vụ
Khanh, - Ðức Cha James Harvey, Bộ trưởng Phủ Giáo Hoàng, -
Ðức Cha Stanislaw Dziwicsz, Thư ký riêng của ÐTC; - Ðức Ông
Renato Boccardo, Giám chức được bổ nhiệm giữ chức vụ
tổ chức các chuyến viếng thăm quốc tế của ÐTC, thay
thế Cha Roberto Tucci, thăng Hồng Y.
Trên may báy từ Roma đi Athènes có hơn 60 phóng viên báo chí và nhân viên các đài phát thanh, truyền hình quốc tế cùng đi, để theo dõi chuyến viếng thăm, được coi là rất khó khăn. Thực sự đây là một chuyến viếng thăm đáng lo ngại. Trước ngày ÐTC tới Athènes, đã xẩy ra một vụ nổ; một phụ nữ người Anh bị thiệt mạng. Chính phủ Hy lạp đã đưa ra những biện pháp rất nghiêm ngặt, để bảo vệ an ninh.
Trong diễn văn đọc
tại Phủ Tổng thống, ÐTC cảm ơn Tổng thống đã viếng thăm
Vatican tháng Giêng 2001 vừa qua. Cảm ơn Tổng thống về lời mời
viếng thăm Hy lạp - cảm ơn
Thánh Hội nghị Giáo hội chính thống đã tạo điều kiện để
có thể thực hiện chuyến viếng thăm
ngày hôm nay. Cảm ơn Chính phủ và Ngoại giao đoàn về sự
hiện diện và cám ơn dân chúng
Hy lạp về cuộc đón tiếp dành cho ngài.
Ngài đến Athèna
theo vết chân Thánh Phaolô, một hình ảnh lịch
sử quan trọng đầu tiên đã mở con đường đối thoại
giữa các tín hữu Kitô với thế giới Hy lạp và nhất là
với nền văn hóa Hy lạp. Nền văn hóa này đã giữ vai trò
rất quan trọng trong Kitô giáo: Bản văn Kinh Thánh, Cựu cũng
như Tân ước đã được viết bằng tiếng Hy lạp và được
xử dụng từ các thế kỳ đầu Giáo hội và mãi cho tới lúc
này, để rao giảng Tin Mừng, truyền lại đức tin cho các thế hệ.
ÐTC nhắc đến Thánh Justin tử đạo (vào thế kỷ thứ hai) một triết gia nổi tiếng đã rao giảng sự phù hợp giữa đức tin và lý trí con người. Nhiều Thánh Tiến sĩ của những thế kỷ đầu, như Thánh Gioan Crisostomo, Thánh Gregorio Nazianzeno... đã hấp thụ được nền văn hóa Hy lạp và sau đó Thánh Tomas Tiến sĩ đã ca ngợi nền Triết học của Aristote, (383-322, trước Chúa giáng sinh, một triết gia nổi tiếng của Hy lạp.
Ngài không quên nhắc lại nguồn gốc "Thế Vận Hội Olympics" được tổ chức cho tới lúc này, là do sáng kiến của Hy lạp, trước hết tại Thành phố Olympie của Hy lạp. Ðây là những cơ hội tạo tình huynh đệ giữa các dân tộc, cách riêng giữa các thế hệ trẻ. Hy lạp, theo ÐTC, là chiếc cầu giữa Ðông và Tây. Ngài nhấn mạnh đến sự cộng tác giữa các Giáo hội. Các tín hữu Công giáo luôn luôn sẵn sàng đối thoại và cộng tác với mọi tầng lớp xã hội, để cổ võ và bảo vệ hòa bình, để cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Như ngài đã nhắc đến nhiều lần trong Triều Giáo Hoàng: Giáo hội cần phải thở bằng hai lá phổi Ðông và Tây.
Trong diễn văn chào
mừng, Tổng thống cộng hòa Hy lạp nhấn mạnh rằng: chuyến
viếng thăm của Ðức Gioan Phaolô II là một giai đoạn quan trọng: giai
đoạn của sự cộng tác chặt chẽ và hữu hiệu trong lúc bước
vào Ngàn năm mới, cộng tác trong việc xây dựng một Châu
Âu hiệp nhất , theo ơn gọi
và dựa trên nền văn hóa Kitô, một gia tài chung của tất
cả Lục địa, ngay từ các thế kỷ đầu Kitô giáo.
Tổng thống cũng nhắc đến cuộc gặp gỡ giữa Ðức Phaolô VI (1963-1978) và Ðức Athenagoras đệ nhất, Giáo chủ đại kết chính thống, một cuộc gặp gỡ diễn ra trong đức ái và tình yêu thương.
Trong dịp này, Tổng
thống tặng ÐTC bức ảnh kín màu mosaic Thánh Phaolô, tông đồ.
Từ giã Tổng thống lúc 12:15, ÐTC đến viếng thăm xã giao Ðức Christodoulos, TGM Athènes và Giáo chủ Giáo hội chính thống Hy lạp. Về cuộc gặp gỡ này, chúng tôi xin dành lại phần điểm báo ngày mai. Qua đài truyền hình trực tiếp, chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh điểm này: trong khi Ðức Gioan Phaolô II và Ðức Giáo chủ gặp riêng tại Tòa TGM chính thống, kéo dài hơn nửa tiếng đồng hồ, bầu khí giữa hai phái đoàn Tòa Thánh và chính thống rất cởi mở, thoải mái, không có bầu khí căng thẳng như những tin loan báo trước.
Nhật báo công giáo
"Tương Lai" số ra ngày 03.5.2001, trước ngày ÐTC lên đường
đi Athènes, Damas và Malta, chạy tựa đề
lớn nơi trang 19 như sau: Thánh
Phaolô, vị tiên phong của việc hội nhập văn hóa". Dưới tít
lớn này, Cha Padovese, nhà thần học Dòng Phanxicô, Viện trưởng
Viện Tu đức của Antonianum, giáo sư Ðại học Gregoriana, tuyên
bố: Ðức Karol Wojtyla như Vị Tông đồ Dân ngoại, thày của
việc rao giảng Tin Mừng và của đối thoại.
Trong
bài, cha
Padovese viết: Việc tìm những tĩnh từ xứng hợp cho chuyến
viếng thăm mới này của ÐTC thực gay go. Một chuyến viếng
thăm gợi lại những dữ kiện chính trị, liên tôn giáo.
Damasco, thành phố đại đồng
của người dân đến từ nhiều quốc gia khác nhau, là thành
phố của ơn kêu gọi truyền giáo và thành phố đón nhận thánh
Phaolô cách rất nồng hậu. Giáo hội mang ơn nhiều đối với
Thành phố này. Còn tại
Athèna, thủ đô của nền triết học của thời đại, Vị Tông
đồ dân ngoại giới thiệu mình như người đem đến sứ điệp
của Chúa Kitô, dù biết rằng sẽ gặp
nhiều chống đối. Ðức Wojtyla cũng có một sự can đảm
như chính thánh Phaolô. Tác
giả bài nhận định đã giải thích như sau:
Không phải tình cờ, Ðức Wojtyla đã nhận tên hiệu
là Gioan PHAOLÔ, nhằm
theo tinh thần truyền giáo cho dân ngoại như thánh Phaolô tông
đồ và như vị Tiền nhiệm
của ngài: đức cố Giáo Hoàng Phaolo Ðệ Lục . Một tên gọi và một
lịch sử. Rồi tác giả quả quyết: Thật khó tưởng tượng
ra được một vị tông đồ dân ngoại hơn Ðức Gioan Phaolô đệ
nhị".
Ðược
hỏi: cái
gì liên kết Ðức Gioan Phaolô II với Thánh Phaolô thành
Damasco, Cha
Padovese trả lời: Thánh Phaolô biết rõ rằng: Các thành phố
lớn trên thế giới, như Damasco chẳng hạn, thành phố hỗn
hộp,
đa hình thức, nhưng khoan dung hơn Giêrusalem, luôn luôn là một
" Ðền Thánh. Với ý chí cương quyết, với sự minh bạch, Ðức
Gioan Phaolô II ý thức về ơn gọi của mình, như thánh Phaolô,
đem Chúa Kitô cho các nền văn
hóa khác nhau. Và ngài hiểu rằng: ơn kêu gọi của mình là
ơn kêu gọi của việc rao giảng lưu động và là việc rao giảng
này không luôn luôn dễ dàng, thuận tiện.
Ðược
hỏi: Vậy
Athèna đối với Phaolô có ý nghĩa gì, nhà thần học dòng
Phanxicô trả lời như sau:
Rao Giảng tại Diễn Ðàn
(Areopago), có nghĩa là giảng tại nơi và cho chính trung tâm của nền văn
hóa Hy lạp. Ðây là lúc cao điểm của thừa tác vụ của Thánh
Phaolô. Trước mắt người dân Athèna Phaolô phác họa
phương pháp truyền giáo của mình. Ngài không chỉ trích
việc họ tôn thờ Trời, Ðấng mà họ không biết,, nhưng khởi
đầu bằng việc ca ngợi tinh thần sùng đạo của họ: "Tôi
thấy rằng anh em có tinh thần rất sùng đạo". Với lời ca
ngợi này, Thánh Phaolo đã mở con đường tiếp xúc trực
tiếp với thính giả. Ðề nghị đối thoại của Thánh Phaolo có
thể dừng lại bằng lời quả quyết này là "Thiên Chúa đã dựng nên trời đất và tất
cả những gì trong vũ trụ này". Nhưng Phaolô biết rằng: ơn
gọi của ngài đòi cái khác nữa và ngài biết rằng những
người đối thoại của ngài bất đồng ý kiến với ngài
ở điểm nào. Và ngài đã vượt qua điểm này bằng việc
giảng cho họ về Chúa sống lại, không bằng cách chung chung
thôi.
Ngài biết có thể thất bại hoặc gặp chống đối, nhưng không
thể thiếu sót bổn phận trong
việc rao giảng chân lý. Ðây cũng chính là kiểu cách và con
đường của Ðức Gioan Phaolô II.
Còn về chặng dừng tại đảo Malta, Cha Padovese giải thích như sau: Phaolô không chủ ý đến đây rao giảng Tin Mừng. Trên đường đi Roma, Phaolô bị dắm tầu. Ðây là một thử thách cũng như biết bao thử thách khác gặp phải trong hơn 30 năm truyền giáo, trên con đường dài 10 ngàn dậm. Việc rao giảng Tin Mừng đi song song với đau khổ. Và Malta là biểu hiệu của con đường rao giảng và đau khổ này, và cũng là biểu hiệu rõ ràng Triều Giáo Hoàng của Ðức Gioan Phaolô II. Từ Athènes đến Damas và trở về Malta nói đúng ra cũng là một con đường. Ơn gọi truyền giáo (tại Damasco), rao giảng Tin Mừng (tại Athèna), chịu đau khổ (tại Malta và trong hơn 30 năm truyền giáo lưu động) ơn gọi đó của Thánh Phaolô cũng là ơn gọi truyền giáo, sứ vụ rao giảng Tin mừng và đau khổ của Ðức Thánh Cha từ 23 năm nay. Ðây là ý nghĩa sâu xa của cuộc hành hương theo vết chân Thánh Phaolô mà ÐTC đang thực hiện, để nêu gương cho toàn Giáo hội, trong lúc bước vào Ngàn Năm mới. "Duc in altum, hãy ra khơi, hãy thả lưới, bất chấp sóng gió bão táp, biển động; hãy tín nhiệm vào Chúa Kitô hiện diện trong Giáo hội: "Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế".