Thử Nhìn về Hoạt Ðộng Truyền Giáo
của Giáo Hội tại Châu Á
nhân dịp Ngày Quốc Tế Truyền Giáo thứ 75
Prepared
for internet by Msgr. Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines
Thử
Nhìn về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội tại Châu Á,
nhân dịp Ngày Quốc Tế Truyền Giáo lần thứ 75 (Chúa Nhật
Truyền Giáo 21/10/2001).
Năm
1926, liền sau Năm Thánh 1925,
khi quyết định lập Ngày thế giới Truyền giáo, ÐTC Pio
XI (1922-1939), nói: "Một giáo xứ (một cộng đồng) bỏ qua công
việc truyền giáo, tức là bỏ qua
một cộng việc "công giáo hơn cả" trong các công việc
công giáo khác, một "công việc tông đồ
hơn cả" trong các công việc tông đồ khác". ÐTC giảng
dạy và ngài thi hành điều ngài giảng dạy. Ngài là một
trong các Vị Giáo Hoàng của thế kỷ XX đẩy mạnh công việc
truyền giáo. Ngài đã viết Thông điệp "Maximum illud" như một
Hiến chương của việc truyền giáo. Ngài đã tôn phong sáu
linh mục Trung quốc lên làm Giám mục tiên khởi năm 1926
và chính ngài đã tấn phong Giám mục đầu tiên của Việt
nam: Ðức Cha Gioan B. Nguyễn bá Tòng tại Ðền Thờ Thánh Phêrô,
và bổ nhiệm Ðức Cha Tòng làm Giám mục đại diện Tông Tòa
Phát diệm, năm
1933. Chính Ðức Piô XI đã cho xây cất Giáo Hoàng Học Viện
"Urbano VIII" trên đồi Gianicolo năm 1927, để đón nhận
các chủng sinh đến từ các xứ truyền giáo, theo học tại các
Ðại Học ở Roma. Ngài cũng lập Ðại Học Urbaniana trên Ðồi
này, để huấn luyện các Linh mục, Chủng sinh và Tu sĩ chuyên
về vấn đề truyền giáo.
Giáo
huấn của ÐTC Pio XI và những công việc của ngài đã làm vẫn
được tiếp tục và đẩy mạnh hơn trong các Triều Giáo Hoàng
của Ðức Pio XII (1939-1958), Ðức Gioan XXIII (1958-1963), Ðức
Phaolô VI (1963-1978) với Tông huấn "Evangelii annuntiandi"
(8.12.1975) và
nhất là Ðức Gioan Phaolô đệ nhị, với Thông điệp
"Redemptoris Missio""Sứ Mạng của Ðấng Cứu Chuộc" ban hành
ngày 07.12.1990.
Các Vị kế nghiệp Thánh Phêrô, Chủ chăn Giáo hội hoàn vũ,
ý thức rõ ràng về sứ mệnh truyền giáo, do chính Chúa Giêsu,
Ðấng thiết lập Giáo hội đã để lại cho các ngài và cho
các vị kế nghiệp các Thánh Tông đồ, trước khi trở về với
Chúa Cha. "Các con hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành
môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần; hãy dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy
đã truyền cho các con"
(Mt 28, 19).
Trong
Sắc Lệnh "Ad Gentes" về việc truyền giáo cho dân ngoại, Công
đồng Vatican II nói rõ: "Giáo hội tự bản tính là truyền
giáo". Như vậy công việc truyền giáo là nhiệm vụ chính của
mọi thành phần Giáo hội, bởi vì với Bí tích Rửa tội, mọi
tín hữu Kitô trở nên thành viên của Giáo hội, với mọi
quyền lợi và nghĩa vụ. Trong Thông điệp Redemptoris Missio, ÐTC
GP II viết: "Tất cả cộng đồng Antiochia liên lụy vào việc gửi
Phaolô và Barnaba đi rao giảng Tin Mừng cho các dân ngoại" (số
61). Công
việc truyền giáo mà Cộng đồng đầu tiên của Giáo hội đã
làm vẫn có giá trị cho mọi thời đại và khẩn cấp đối với
Giáo hội thời nay (xem RM, ibid).
Trong
Cộng đồng Dân Chúa (gồm ÐTC, Giám mục, Linh mục, Thầy Sáu,
Tu sĩ nam, nữ và
Giáo dân), nhân viên truyền giáo đầu tiên, dĩ nhiên, là
giám mục trong hiệp thông với Vị kế nghiệp Phêrô, bởi vì
chính Chúa Giêsu đã trao phó trách nhiệm này cho các ngài (x.Gv
20, 21; Mt 28,19; Mc 16,15; Lc 24, 47 và Cv 1,8).. Giám mục được tấn
phông cho công việc truyền giáo trên cả thế giới, cùng với
Giám mục Roma và dưới quyền hướng dẫn của ngài. Trong Sắc
Lệnh về Giám mục "Christus Dominus",
Công đồng Vatican II nói rõ: "Hoạt động truyền giáo
là bổn phận quan trọng và thánh thiện hơn cả của Giáo hội"
(số 1 và các số sau). Ngay từ đầu, các Tông đồ đã ý thức
rõ về bổn phận này. Các ngài nói: "Chúng ta bỏ việc rao
giảng Lời Chúa, để lo việc ăn uống, phục vụ người nghèo,
là điều không phải"
(Cv 6, 2). Các ngài đã lựa chọn và phong chức Phó Tế
cho một số tín hữu đủ điều kiện, để lo công việc từ
thiện bác ái và quản trị tài sản Giáo hội, để các ngài
được hoàn toàn tự do rao giàng Lời Chúa.
Trong
nhiều bài phát biểu tại THÐGM lần này,
nhiều Nghị phụ đã nhắc lại bổn phận chính yếu này:
Phải rao giảng Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế duy nhất, vì
đây là nến tảng ơn cứu rỗi.
Sau
Giám mục, mỗi linh mục, với việc tấn phong, tham dự cùng với
Giám mục vào việc truyền giáo của Giáo hội hoàn vũ "Ad
Gentes". Ơn thiêng liêng mà linh mục lãnh nhận trong ngày thụ
phong không phải chỉ chuẩn bị các ngài cho một sứ vụ giới
hạn, thu hẹp, nhưng cho một sứ mệnh rất rộng rãi và hoàn
vũ của ơn cứu rỗi: "Các con hãy trở nên chứng nhân của
Cha cho đến cùng cõi trái đất" (Cv 1, 8), bởi vì thừa tác
vụ của linh mục tham dự vào chính tính cách
hoàn vũ của sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã trao cho các
Tông đồ. Sứ mệnh của các linh mục phải vượt qua biên giới
nhỏ hẹp của một giáo xứ, của một giáo phận, của một quốc
gia, và các ngài được mời gọi rao giảng Tin Mừng trên cả
thế giới: "Các con hãy ra đi khắp thế giới. ÐTC Gioan
Phaolô II nói: "Mỗi một linh mục phải có một trái tim hăng
say truyền giáo" (RM ,67).
Ý
thức về trách nhiệm quan trọng này, nhiều Giáo hội địa phương
tại Châu Á đã
lập các Viện truyền giáo với mục đích gửi các nhà
truyền giáo nam, nữ đến các nước khác, dù Giáo hội quê
hương của các ngài vẫn cần đến nhiều nhà truyền giáo. Ðây
là một hành động rất khích lệ. Các Giám mục Châu Á trách
nhiệm cách riêng về việc cổ võ các Viện truyền giáo như
vậy và phải luôn quan tâm đến việc trao tặng cách quảng đại
nhân sự truyền giáo cho những miền còn quá thiếu thốn (RM,
66 và Ad Gentes , 23-24).
Sau
Giám mục và Linh mục, công việc truyền giáo liên hệ đến
các Dòng tu nam, nữ. Tất cả đều có phần quan trọng trong việc
rao giảng Tin Mừng. Lịch sử cho thấy rõ: nhiều Dòng Tu nam, nữ
từ Tây phương đã đem Tin Mừng đến cho dân tộc Châu Á.
Ngày nay, Châu Âu cần đến sự giúp đỡ của các Giáo hội
trẻ trung, nơi có nhiều ơn kêu gọi. Ðây không phải chỉ là
tâm tình biết ơn; nhưng còn là bổn phận
của mỗi tín hữu đã lãnh nhận đức tin, phải đem
đức tin cho người khác trong tinh thần hiệp thông của Giáo
hội. Ðức Phaolô VI viết trong Tông huấn "Evangelii nuntiandi" như sau: "Ðời sống tận hiến là một dụng cụ đặc biệt
của việc rao giảng Tin Mừng". Chúng ta tự hỏi mình: Hiến
thân cho Chúa để làm gì? Ðể nên thánh và để thánh hóa
người khác. Nói cách khác: Ðể biết Chúa, yêu mến Chúa
hơn và để thông ban Chúa cho người khác. Ðó là truyền giáo.
Sau khi gặp Chúa Giêsu, Anrê dẫn Phêrô đến gặp Người.
Trong sứ diệp ngày truyền năm nay, ÐTC viết: "Ai đã gặp
được Chúa Kitô rồi, không thể chỉ giữ lại cho mình thôi". Các linh hồn tận hiến, với những lời khấn, có khả
năng hiến thân hoàn toàn cho công việc rao giảng Tin Mừng, vì
sự lựa chọn của các ngài,
vì tính cách sẵn sàng hoàn toàn: "Này con đến", vì
tính cách sáng tạo
những phương pháp truyền giáo - như lịch sử truyền giáo
đã minh chứng - và về lòng quảng đại, nhiệt thành. Biết
bao nhà truyền giáo từ đầu Giáo hội đến ngày nay đã hy
sinh mạng sống tại các xứ truyền giáo, đề vun trồng và làm
cho lớn mạnh Giáo hội tại đây.
Nhìn
lại Châu Á,
số người công giáo quá ít (không tới 3%); nhưng trái lại
Châu Á hiện nay được Chúa chúc lành bằng các ơn kêu gọi, mỗi ngày mỗi gia tăng. Công đồng Vatican II và Giáo huấn của
Giáo hội, yêu cầu các Dòng Tu Nam, Nữ hãy mở rộng nhãn
giới của công việc tông đồ truyền thống và gia tăng các
hoạt động truyền giáo, như ÐTC Gioan Phaolô II đã nói rõ trong Thông
điệp "Sứ Mạng của Ðấng Cứu Chuộc" (Redemptoris Missio).
Cũng
nhìn về Châu Á, trong
công việc truyền giáo "Ad Gentes" tại đây, người
giáo dân nắm giữ vai trò rất quan trọng, bởi vì cánh dồng
truyền tại đây quá mênh mông, có rất nhiều vấn đề phức
tạp về văn hóa, tôn giáo, xã hội, chính trị... Bổn phận
người giáo dân tại đây, trước hết trở nên men và muối
đất, để đem Chúa vào các môi trường hoạt động, để đem
Tin Mừng cho từng triệu, triệu người chưa biết Chúa Giêsu
Kitô, Ðấng cứu thế duy nhất của nhân loại và là Ðấng
sinh sống và rao giảng Tin Mừng trước hết tại Châu Á. Ðể
chu toàn bổn phận này, cần phải có một cái nhìn chung về tình
hình các Giáo hội địa phương tại Lục địa này, cách riêng
về những cơ cấu và chương trình huấn luyện hàng giáo dân.
Phải thành thực công nhận rằng: tại nhiều quốc gia công việc
tổ chức và huấn luyện Hàng giáo dân còn thiếu sót nhiều.
Công việc truyền giáo xem ra vẫn nằm trong tay Hàng giáo sĩ.
Người giáo dân chưa tham gia tích cực vào công việc rao giảng
Tin Mừng. Giáo hội Ðại Hàn được thành lập và tiến mạnh
là nhờ vào giáo dân
ngay từ buổi đầu và vẫn tiếp tục cho tới lúc này.
Nhìn lại lịch sử truyền giáo tại Châu Á, chúng ta thấy rằng: ngay từ đầu, các giáo lý viên đã góp công rất lớn lao trong công việc truyền giáo: giảng dạy giáo lý, chuẩn bị các anh chị em tân tòng lãnh các Bí tích. Gương Thầy Giảng Anrê Phú Yên, tử đạo, được phong Chân phước Năm Thánh 2000, cho thấy rõ công việc của các giáo lý viên đem lại nhiều ích lợi cho công việc truyền giáo.
Góp công vào việc truyền giáo, chúng ta còn phải kể đến các gia đình công giáo, nơi thông truyền đức tin đầu tiên cho các thế hệ trẻ và là nơi phát xuất nhiều ơn kêu gọi. Trong xã hội Châu Á, gia đình vẫn còn khá chặt chẽ. Nhưng công việc giáo dục về đạo đức, tôn giáo, trong hoàn cảnh thay đổi hiện nay, bị sa sút rất nhiều. Nhiều gia đình không còn giữ thói quen đọc kinh chung, cầu nguyện chung nữa, nhất là tại các thành phố lớn. Gia đình hư hỏng, xã hội cũng không thể lành mạnh được.
Ngoài ra, còn phải lưu ý đến các Phong trào và Hội đoàn Giáo hội, nhất là các Phong trào và Hội đoàn mới được thành lập trong thế kỷ này và sau Công đồng chung Vatican II. Các Phong trào và Hội đoàn này rất hăng say và nhiệt thành trong công việc tông đồ và truyền giáo. Chúng ta phải công nhận rằng: Chúa Thánh Thần luôn luôn hoạt động trong Giáo hội. ÐTC Gioan Phaolô II quả quyết như sau: "Các Phong trào và Hội đoàn này là một yếu tố quan trọng và không thể phủ nhận trong việc thiết lập các Giáo hội mới tại địa phương" (Christifideles laici).
Với Tông huấn "Eccelsia in Asia", Giáo hội công giáo tại Châu Á đang chờ đợi một cuộc canh tân truyền giáo. Mỗi giám mục, linh mục, Tu sĩ nam, nữ và mỗi một lãnh vực của Dân Chúa hãy ý thức về bổn phận quan trọng này. "Lúa chín đầy đồng, nhưng thợ gặt lại quá ít. Các con hãy xin Chủ ruộng sai nhiều thợ đến làm việc trong cánh đồng của Người". Dĩ nhiên bối cảnh khó khăn và phức tạp hiện nay tại nhiều nước Châu Á ngăn trở hay không cho phép xúc tiến tự do công việc truyền giáo. Chúng ta không thể truyền giáo theo phương thức của Thánh Phanxicô Xaviê, nhưng mỗi người trong chúng ta luôn luôn có thể truyền giáo, trong bất cứ hoàn cảnh nào, theo kiểu cách của Thánh Nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu, nghĩa là bằng hy sinh và cầu nguyện, theo kiểu cách của Chân Phước Frédéric Ozanam, bằng các công việc từ thiện bác ái, và của Ðầy tớ Chúa Pauline Jariocot, bằng việc cầu nguyện và góp tiền của, tùy khả năng của chúng ta cho các xứ truyền giáo. Trong sứ điệp ngày truyền giáo thế giới năm nay, ÐTC nhắc lại lời kêu gọi trong Tông thư "Khởi đầu ngàn năm mới" (Novo Millennio ineunte): "Duc in altum": hãy ra khơi, bất cứ trong hoàn cảnh khó khăn nào. Việc thúc đẩy tiến về tương lai, được hướng dẫn bởi niềm hy vọng, phải là nền tảng của hành động của toàn Giáo hội trong ngàn năm mới này".