Tâm thư của Linh Mục Nguyễn Hữu Giải
và Linh Mục Phan Văn Lợi
gửi các Linh Mục Quốc Nội
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Tâm thư của Linh Mục Nguyễn Hữu Giải và Linh Mục Phan Văn Lợi gửi các Linh Mục Quốc Nội.
Kính gởi Quý Anh Em trong hàng linh mục Việt Nam tại quê nhà
Kính thưa Quý Cha,
Theo dõi các phương tiện truyền thông quốc nội lẫn hải ngoại, Quý Cha vừa được tin một người anh em của chúng ta, linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, giáo phận Huế, đã lãnh án 15 năm tù giam và 5 năm quản chế, sau một "cuộc xét xử" quái đản rất sơ sài (không luật sư biện hộ), vội vã (chưa tới 2 tiếng đồng hồ), chùng lén (chỉ có người của nhà nước) hôm 19-10-2001 vừa qua tại thành phố Huế.
Bản án nặng nề này, như Quý Cha biết, là hậu của việc cha Lý đã đưa ra 9 Lời Kêu Gọi cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền trên đất nước, 2 Lời Chứng trước Quốc Hội Hoa Kỳ về hiện trạng các tôn giáo (đặc biệt là Công giáo) tại Việt Nam, 19 Biên Bản về những vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Cộng sản, và nhiều lá thư gởi đến từng vị trong Hội Ðồng Giám Mục, xin các Ðức Cha can đảm dành lại tự do cho Giáo hội và cho con người... Ðó cũng là hậu quả của việc cha Lý đã leo lên tháp nhà thờ Nguyệt Biều treo hai bảng "Chúng tôi cần tự do tôn giáo" và "Tự do tôn giáo hay là chết", đã cùng giáo dân Nguyệt Biều lội xuống ruộng dành lại (cách bất bạo động) tài sản của Giáo hội, đã bất chấp "lệnh quản chế tại gia" và "lệnh cấm thi hành chức vụ linh mục" dựa trên Nghị định vi hiến 31/CP, đã dạy cho giáo dân An Truyền về tuyên ngôn Tự do tôn giáo của Công đồng Vatican II, đã phê bình phản kháng Nghị quyết 26/CP trước giáo dân và nhà nước, đã cùng với nhiều vị lãnh đạo tôn giáo bạn thành lập Hội đồng Liên tôn Ðoàn kết Quốc nội nhằm tranh đấu cho tự do tôn giáo...
Quý Cha cũng biết sự kiện gần 150 anh em linh mục Việt Nam hải ngoại đã tung ra Bản Lên Tiếng về "hiện tình cấp bách của đời sống tôn giáo nói chung và đời sống của Giáo Hội Công Giáo nói riêng tại Việt Nam" dịp lễ Mẹ lên trời ngày 15/8/2001; sự kiện anh chị em giáo dân Việt Nam hải ngoại (nay thêm những người ngoài công giáo) đang lấy chữ ký cho Bản Lên Tiếng của mình về vấn đề "đàn áp nhân quyền" lẫn "tự do tôn giáo" tại Việt Nam và sẽ kết thúc việc đó ngày lễ Các Thánh tử đạo 24/11/2001. Cả hai Bản Lên Tiếng này, sáng kiến của người Công giáo hải ngoại trước trách nhiệm lịch sử với Giáo hội và Dân tộc, đều minh nhiên ủng hộ cuộc đấu tranh do cha Lý khởi xướng.
Trong bầu khí ấy, hai anh em chúng con là linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải và Phêrô Phan Văn Lợi, hiện ở tại Giáo phận Huế, trong mối hiệp thông tinh thần với cha Lý vừa lãnh một bản án bất công tàn bạo, xin có đôi lời tâm sự cùng Quý Cha.
Kính thưa Quý Cha,
Là những người trong cuộc, sống giữa cộng đồng dân tộc và cộng đồng dân Chúa, hơn ai hết, giới linh mục chúng ta hiểu rất rõ hoàn cảnh đất nước và Giáo hội Việt Nam hôm nay, ý thức sâu sắc những vấn đề nhức nhối nơi xã hội và tôn giáo hiện tại, cảm nghiệm thấm thía bao nỗi khổ của đồng bào và của đoàn chiên trong lúc này. Chính vì thế, hai anh em chúng con muốn được thưa chuyện với Quý Cha về những gì mà thân phận và nếp sống linh mục của chúng ta không nhiều thì ít đang gặp phải.
1- Với tư cách linh mục, chúng ta, nhất là những anh em được thụ phong sau năm 1975, đã thấy con đường tiến lên bàn thánh của mình thật chông gai và bất bình thường, đặc biệt vì có sự xen mình của nhà nước vô thần cộng sản. Họ đã ngang nhiên và thô bạo can thiệp vào cuộc sống tận hiến của chúng ta qua các bước tuyển mộ chủng sinh, tấn phong linh mục và bổ nhiệm quản xứ. Biết bao người trong chúng ta đã phải trầy trật trên các chặng đường này. Nhiều anh em đã chỉ bước lên được bàn thánh khi lưng đã còng, tóc đã bạc, sức phục vụ đã giảm. Nhiều anh em đành chấp nhận số phận được thụ phong không "xin phép" nhà nước, gánh chịu lắm hậu quả của sự "bất hợp pháp thánh thiện" này và chẳng bao giờ được làm mục vụ công khai. Nhiều anh em bị giăng bẫy để bất đắc dĩ trở thành công cụ của chế độ. Cộng sản còn tạo sự nghi ngờ chia rẽ trong hàng ngũ linh mục chúng ta. Ðó là chưa nói đến lắm bạn bè của chúng ta đã không tiến được đến đích, chẳng phải vì lý do bản thân, ý muốn bản quyền, nhưng vì quyết định tùy tiện võ đoán của quyền lực thế tục.
2- Với tư cách cộng tác viên của hàng giáo phẩm, chúng ta đã đau đớn nhìn các vị bản quyền của chúng ta gặp khó khăn đủ điều, bị hạn chế đủ cách, chịu áp lực đủ kiểu bởi các văn bản pháp luật về tôn giáo, bởi Ban tôn giáo nhà nước, bởi nhà cầm quyền và công an tôn giáo địa phương. Nhiều quyền giám mục hay quyền linh mục bị thế gian đoạt lấy để làm con bài mặc cả, trao đổi, hòng buộc Giáo hội tương nhượng, thỏa hiệp. Có những chương trình mục vụ mà chủ chăn giáo phận cùng linh mục đoàn đã bàn thảo và quyết định thực hiện, nhưng rồi gặp cản trở tứ phía vì thái độ "dành quyền ban phép", hay đôi lúc đành dẹp bỏ vĩnh viễn vì hành động "thọc gậy bánh xe" của nhà cầm quyền. Chúng ta đã chứng kiến nhiều giám mục và nhiều anh em linh mục, vì lên tiếng cho sự thật mà đã bị bách hại, thậm chí đến vong mạng. Nói chung, chúng ta đã từ lâu nhận ra ý đồ thâm độc là biến tôn giáo, đặc biệt Công giáo, thành công cụ trong tay nhà cầm quyền, thành thuốc phiện ru ngủ các tín hữu và cuối cùng thành vô nghĩa vô ích cho xã hội.
3- Với tư cách chủ chăn, chúng ta đã gặp biết bao khó khăn trong việc thi hành phận sựï: nào bị theo dõi đường đi nước bước, chương trình mục vụ, bài giảng thánh lễ, bài dạy giáo lý...; nào bị hạch sách trong những hoạt động thuần túy tôn giáo như sửa sang xây dựng thánh đường, tổ chức lễ hội to nhỏ, thiết lập các ban ngành trong giáo xứ... Thậm chí có những anh em còn bị buộc phải xin phép (mà chưa hẳn đã được) khi dựng bia kỷ niệm, dâng lễ đồng tế, mở khóa huấn luyện giáo dân...
Chúng ta đã từng chứng kiến con cái chúng ta là các ứng sinh chủng viện, hội dòng gặp nhiều khó dễ trong việc hiến mình theo ơn gọi: bị hạch sách, bị đặt điều kiện, có lúc bị loại khỏi danh sách ứng sinh cách phi lý tức tưởi. Chúng ta đau đớn và bất lực nhìn những cảnh não lòng của đoàn chiên: bao thiếu nhi phải thất học, bao thiếu nữ phải bán thân vì kiệt quệ kinh tế; bao vợ chồng bị bó buộc phá thai, triệt sản nghịch với luật đạo; bao giáo dân bị kỳ thị trong học hành, trong công ăn việc làm do lý lịch Công giáo; bao gia đình phải điêu đứng vì nạn phụ phí học thêm; bao phụ huynh không thể chọn lựa trường học và đường hướng giáo dục như ý cho con cái (vì các tôn giáo không được phép mở trường); bao học sinh phải bị nhồi nhét những học thuyết dối trá sai lạc, khuyến khích hận thù hay những điều vu khống xuyên tạc tôn giáo; bao cộng đoàn tu sĩ, tông đồ giáo dân -những cộng tác viên của chúng ta- bị làm khó dễ hay thậm chí bị hăm dọa.
4- Với tư cách lãnh đạo quần chúng, chúng ta đã không ít lần gặp khó khăn hay bị chụp mũ có ý đồ trong những công tác cứu trợ, phục vụ xã hội. Chúng ta đã thấy những phát biểu của mình trên báo chí, đài phát thanh truyền hình có khi bị bóp méo, cắt xén, xuyên tạc. Chúng ta đã không thể làm cho sứ điệp Tin Mừng và học thuyết Công Giáo vang ra khỏi bốn bức tường nhà thờ để đi vào lòng trần thế. Chúng ta đã không có quyền sở hữu những phương tiện thông tin đại chúng để truyền bá giáo lý hầu đem lại những giá trị đạo đức và tinh thần cho xã hội, cho nhân dân. Quan hệ của chúng ta với các vị lãnh đạo tôn giáo bạn bị nghi ngờ, theo dõi. Chúng ta từng chứng kiến nạn cường hào ác bá, tham nhũng cửa quyền, nạn giải thích và thi hành luật pháp tùy tiện, nạn suy đồi luân lý (phá thai, giết người êm dịu, ma túy, đĩ điếm, rượu chè...) mà không thể đem hết sức mình để chặn đứng vì bị bao cơ chế cấm đoán, cản trở hay giới hạn, mà cơ bản nhất là cơ chế toàn trị độc tài.
Hậu quả là đất nước ngày càng suy giảm đạo đức và kinh tế mà gia tăng tệ đoan và thảm trạng, bạo tàn lấn lướt tình thương và gian dối đè bẹp sự thật.
Kính thưa Quý Cha,
Chúng ta đã được ở trong Giáo hội, một công trình thần linh siêu vượt mọi chế độ, tổ chức chính trị, để làm Giáo hội trở thành muối men cho đời, ánh sáng cho trần gian, lương tâm cho thế quyền và xã hội, nên chúng ta chẳng có trách nhiệm phần nào về tất cả những điều tiêu cực nhận thấy trên đây trong xã hội và giáo hội sao? Chúng ta đã được Thánh Thần tấn phong làm ngôn sứ của sự thật, chứng nhân của tình thương, kẻ bảo vệ phẩm giá và tự do của con người, cá nhân lẫn tập thể, nhưng phải chăng vì chúng ta không hay không thể hoàn thành nhiệm vụ, nên xảy ra tình trạng đất nước bị tang thương, xã hội bị bất ổn, nhân quyền bị chà đạp, Giáo hội bị khống chế như hôm nay? Trong lúc đó, nhìn vào chúng ta như những con người tận hiến chẳng có gì để mất, tin tưởng chúng ta như những thế lực tinh thần chẳng có gì để sợ, các giáo dân, thậm chí cả lương dân thấp cổ bé miệng chờ mong chúng ta lên tiếng thay cho họ đã mấy chục năm nay rồi.
Vậy trong thời điểm này, thời điểm mà nhiều thành phần ý thức và can đảm trong cộng đồng Công giáo quốc nội lẫn hải ngoại, nhiều tâm hồn thiện chí và dũng cảm trong cộng đồng dân tộc lẫn cộng đồng các tôn giáo đang lên tiếng đòi lại tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền cho mọi con dân đất Việt, hầu đưa đất nước ra khỏi cảnh bế tắc như hiện nay, chúng ta chẳng được mời gọi tự vấn lương tâm để cùng nhau lên tiếng, hợp giọng với họ hay sao?
Ðó là một vài tâm tình mà hai chúng con, sau khi đã cầu nguyện, suy nghĩ, bàn hỏi, muốn bày tỏ cùng Quý Cha, những anh em yêu quý trong hàng ngũ linh mục Việt Nam tại quốc nội. Kính xin Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta tràn đầy Thánh Thần để trở thành ngôn sứ chính danh, chứng nhân đích thực và mục tử như lòng Chúa mong đợi.
Viết tại Huế ngày 28-10-2001
Lễ thánh Tađêô
Kỷ niệm 36 năm ban hành Sắc lệnh "Ðào Tạo Linh Mục"
Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải và Lm Phêrô Phan Văn Lợi