Lời chứng thứ 2

của tù nhân lương tâm,

Linh Mục Tađêô Nguyễn Văn Lý

trước Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan

An Truyền, Huế, Việt Nam, ngày 06-5-2001

Washington D.C., ngày 16-5-2001

Kính thưa Ngài Chủ tịch Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ,

Kính thưa Bà Dân biểu Liên bang Zoe Lofgren, Chủ tịch Ủy ban Nhân quyền Quốc tế Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ,

Kính thưa Quý Vị,

Ngày 10-01-2001, Ngài Elliots Abrams, Chủ tịch Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Quý Quốc đã mời tôi làm chứng về Tự do Tôn giáo tại Việt Nam hiện nay và góp ý về Hiệp ước Thương mại Song phương Việt Mỹ. Nhưng mãi đến cuối ngày 12-02-2001, tòa Ðại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội mới chuyển được giấy mời đến tôi. Dù vậy, ngày 13-02-2001, tôi cũng đã gửi một lời chứng dài 8 trang cho UBTDTGQT của Quý Quốc và đã được phổ biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới.

Hôm nay, tôi rất vui mừng được Hạ viện Quốc hội của Quý Vị lại mời tôi nêu ra những bằng chứng Bạo quyền Việt Nam đàn áp Giáo Hội Công Giáo Việt Nam (GHCGVN) như thế nào thêm một lần nữa. Vậy tôi xin trình bày như sau:

I- Các bằng chứng Việt Cộng đã và đang đàn áp GHCGVN.

Cũng như các tôn giáo khác tại Việt Nam, GHCGVN bị Việt Cộng (VC) đàn áp và mưu đồ tiêu diệt đúng như Bản Tuyên cáo chung của Hội đồng Liên tôn Ðoàn kết Quốc nội và Hội đồng Liên tôn Ðoàn kết Hải ngoại của Việt Nam vừa ký chung ngày 30-4-2001 đã mô tả. Cụ thể, GHCGVN đã và đang bị đàn áp rất đau lòng và nghẹt thở như sau:

1- Từ 1980 đến nay, vào mùa hè hàng năm, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HÐGMVN) đều có một kỳ họp. Trước đó, Ban Thường vụ HÐGMVN phải báo cáo chương trình họp, thành phần tham dự, với Ban Tôn giáo của Việt Cộng và xin phép. Ðang khi họp phải đi trình diện với Ban Tôn giáo, Chủ tịch nước, Thủ tướng và thậm chí cả Tổng bí thư đảng CSVN nữa. Khi trình diện phải nói những lời chúc mừng, biết ơn Việt Cộng rất trái lương tâm, vì phải cám ơn một tổ chức ăn cướp đang siết cổ Giáo Hội mình gần chết. Sau khi họp, nếu có gửi kiến nghị gì cho Bạo quyền, Thư chung gì cho Giáo Hội thì phải xin Bạo quyền duyệt xét cho phép mới được phổ biến. Kể cả các Bản kiến nghị đòi hỏi các quyền cơ bản của Giáo Hội mà cũng phải được Việt Cộng cho phép mới được kiến nghị lên. Tức là muốn đấu tranh điều gì với Việt Cộng thì phải xin phép VC trước. VC cho quyền "xin phép đấu tranh" để lường gạt dư luận là có tự do kiến nghị. Và kiến nghị chỉ là kiến nghị, không bao giờ VC thèm đếm xỉa tới. Và cả một Giáo Hội, cho dù đến mấy chục triệu tín đồ đi nữa, cũng chỉ biết cúi đầu đợi chờ và chờ đợi mà thôi.

2- Mỗi khi phái đoàn Vatican qua VN để bàn bạc với VC việc bổ nhiệm một giám mục nào thì Vatican chỉ có thể bổ nhiệm giám mục mà VC lựa chọn rồi, nếu đưa ra vị nào VC không vừa ý thì VC từ chối mãi, từ chục năm này qua chục năm khác, cho đến khi Vatican nản lòng đành phải bổ nhiệm giám mục nào VC đắc ý mà thôi. Ðức Giám mục Phạm Văn Dụ được Vatican chọn làm giám mục giáo phận Lạng Sơn năm 1960, 19 năm sau, năm 1979, ngài cùng đồng bào di tản khỏi vùng biên giới đang có chiến tranh với Trung quốc, mới được phong chức giám mục. Hơn 8 năm qua, Vatican thương thuyết rất nhiều lần mà VC vẫn chưa đồng ý để 3 giáo phận Hưng Hóa, Hải Phòng và Bùi Chu có giám mục.

3- Các giám mục muốn bổ nhiệm linh mục nào làm việc gì thì:

- nếu giáo phận nào có Ủy ban Ðoàn kết Công giáo Yêu nước (một loại chi bộ trá hình của đảng CSVN) thì nhờ Ủy ban này dàn xếp bí mật trước với VC.

- nếu giáo phận nào VC không lập được Ủy ban này thì Giám mục hoặc linh mục Tổng đại diện phải thương thuyết với công an, thực chất là Phòng chống gián điệp của cục An ninh thuộc Bộ Công an Hà Nội, vì VC luôn coi các linh mục là các gián điệp cần đề phòng, theo dõi rất chặt chẽ.

Nếu VC chấp thuận, đúng hơn là VC áp đặt Tòa Giám mục phải chấp thuận ý của VC, thì giám mục mới dám viết giấy bổ nhiệm. Thực chất là VC bổ nhiệm linh mục nhưng mượn tay các Giám mục ký tên mà thôi.

Chính bản thân tôi đã được Ðức Cha Nguyễn Như Thể, Tổng Giám Mục (TGM) Huế, có ý định đặt làm quản xứ An Truyền từ hơn 3 năm nay nhưng VC không chịu. Cuối tháng 11-2000, tôi khởi xướng cuộc đấu tranh đòi Tự do Tôn giáo đợt cuối cùng này một cách quyết liệt triệt để với khẩu hiệu "Tự do tôn giáo hay là chết" tại Nguyệt Biều. VC muốn tách tôi ra xa khỏi giáo hữu Nguyệt Biều để có thể đàn áp họ, nên bằng lòng để Ðức TGM Huế bổ nhiệm tôi làm quản xứ An Truyền.

4- Các chủng viện đào tạo linh mục chỉ được mở nếu VC cho phép. Trước 1975, Việt Nam có 25 Tiểu chủng viện và 9 Ðại chủng viện. Nay chỉ có 6 đại chủng viện. Ðang xin thêm đại chủng viện thứ 7 ở Xuân Lộc mà VC chưa cho. Ban giám đốc và giáo sư phải do VC xét duyệt. Chương trình học phải có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin. Phải hai năm mới được tuyển một đợt chủng sinh, số lượng được xét duyệt giới hạn rất ít ỏi theo từng giáo phận. Cha mẹ, anh chị, bà con gần của thanh niên được tuyển phải không liên quan đến chế độ Sài gòn cũ, bản thân phải thường trú tại giáo phận ấy. Công an phải gặp thanh niên ấy nhiều lần và điều tra rất cẩn thận và giao nhiệm vụ cộng tác với công an trong khi tu học. Nếu thanh niên nào nhận cộng tác thì càng dễ được vào chủng viện hơn. Ví dụ : giáo phận Xuân Lộc đang có # 300 chủng sinh ngoại trú đã học xong đại học sẵn sàng vào chủng viện, nhưng mỗi năm chỉ được vào chủng viện 5-10 chủng sinh thôi!

Học xong, muốn phong chức linh mục, các giám mục phải làm đơn xin xét duyệt; một số nơi, gia đình chủng sinh ấy phải đút lót tiền - vàng cho VC mới được. Ở giáo phận Huế, từ 1976-1994, suốt 18 năm không có thêm một tân linh mục nào, chủng viện đóng cửa. Từ 1994-2000, chỉ thêm 12 tân linh mục trong khi các linh mục già bệnh qua đời từ 1976 đến nay là #25. Giáo phận Huế hiện nay có # 60 linh mục đang làm việc, nhưng hơn 70% là trên 60 tuổi.

Ðây là biện pháp then chốt nhất VC dùng để bóp chết Công giáo dần dần, vừa không cho phát triển, vừa để Công giáo lụi tàn vì thiếu hàng ngũ linh mục. Số thanh niên sẵn sàng làm linh mục, tu sĩ của vùng này không thể đi tu ở vùng khác. Số linh mục của vùng này không thể tăng cường bổ sung cho số linh mục quá ít của vùng khác. Ví dụ giáo phận Lạng Sơn hiện nay chỉ có 1 giám mục và 1 linh mục duy nhất đã trên 90 tuổi. Không có một dòng tu nào. Các linh mục các giáo phận khác không thể đến làm việc ở giáo phận Lạng Sơn được.

5- Các tu viện không được phép nhận thêm một tu sĩ mới nào. Sau 1975, các tu sĩ đều phải khai "tạm vắng" ở gia đình để "tạm trú" ở tu viện, lấy lý do để "chữa bệnh", để "học thêm"..., chứ không bao giờ ngang nhiên "được phép tu" cả. Các tu sĩ phải luôn sống trong tình trạng "bất hợp pháp", như một loại tội phạm nào đó. Ðó là tội dám "đi tu" theo Chúa Giêsu Kitô mà không chịu đi tu theo Mác-Lênin-Hồ Chí Minh.

6- Tất cả các giáo dân đều chỉ là công dân hạng 2 (trừ ra những giáo dân say mê Hồ Chí Minh), không được vào đảng CSVN, không được thi vào ngành công an, không được tín nhiệm trong các cơ quan nhà nước, luôn bị ghi vào hầu hết các giấy tờ hành chánh là "Công giáo/Thiên Chúa giáo" và luôn bị coi là những người có nhận thức sai lầm, phản khoa học. Các vùng xa, giáo dân không được phép làm nhà thờ, không được có linh mục đến dâng thánh lễ hoặc mỗi năm chỉ 1-2 lần.

Giáo hạt Tam Tòa, tỉnh Quảng Bình, hiện nay chỉ còn # 500 giáo hữu, các nhà thờ đều bị triệt hạ, đất nhà thờ đều bị tịch thu, từ 1962 không có linh mục, không có thánh lễ, sau khi một linh mục duy nhất, cha Lương Văn Thể, coi sóc họ từ 1954 và đột ngột qua đời năm 1962. Thế là hết!

Hơn 800 giáo dân Nam Ðông, tỉnh Thừa Thiên Huế, hơn 500 giáo dân A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, từ 1975 đến nay xin làm nhà thờ mãi mà vẫn không được.

7- Sau 1975, VC tịch thu, buộc trao nhượng tất cả các trường học, đại học, bệnh viện, cô nhi viện, viện dưỡng lão, ruộng đất... của Công giáo và thậm chí một số chủng viện, tu viện và cả nhà thờ nữa, lên đến hàng vạn cơ sở lớn và vừa. Ví dụ:

a. HÐGMVN mất trắng Giáo hoàng Học viện Piô X Ðà Lạt, rộng hàng mấy chục hecta, bị cưỡng chiếm năm 1976, là cơ sở đào tạo linh mục quan trọng bậc nhất của cả Ðông Nam Á do các linh mục dòng Tên điều hành.

Trung tâm Ðức Mẹ La Vang của cả Giáo Hội Việt Nam hiện bị mất 2/3 diện tích đất khuôn viên, # 50 hecta.

b. Ở giáo phận Huế:

- Tiểu chủng viện Hoan Thiện, 11 Ðống Ða - Huế, rộng # 15.000 m2 bị cưỡng chiếm bằng bạo lực tháng 12-1979 bởi nhiều lực lượng công an.

- Trường Bình Linh, thuộc dòng Lasan, 1 Lê Lợi- Huế, rộng # 20.000 m2, có giấy cho VC mượn 5 năm từ 15-8-1975; hàng chục năm qua dòng Lasan đòi lại mãi mà VC cố tình không trả.

- Trường Thánh Giuse của dòng Thánh Tâm, 24b Ðoàn Hữu Trưng, Huế, rộng # 1.500 m2, bị chiếm năm 1976.

- Tu viện Thánh Tâm, 119 Huyền Trân Công chúa (cũ)- Huế, rộng # 40.000 m2, buộc trao nhượng năm 1976.

- Tu viện Thiên An, gần thành phố Huế, bị VC cưỡng chiếm 320.000 m2 đợt 1, để làm khu Vui chơi Giải trí rộng 495.929 m2 ngày 24-12-1999 và đã khởi công xây dựng 27-3-2001.

- Và hàng ngàn cơ sở, đất đai khác. Không có tu viện nào, giáo xứ nào mà không có trường học, cơ sở, nhà ở, bệnh viện, đất đai bị VC cưỡng chiếm, có khi rất thô bạo.

Riêng giáo xứ nhỏ bé Nguyệt Biều đã bị VC cưỡng chiếm gần 20.000 m2 ruộng đất từ 1975. Ðầu tháng 11-2000, # 200 giáo hữu quyết thu hồi lại1.500 m2 đất trong khuôn viên nhà thờ bị VC cưỡng chiếm năm 1977. Thế mà VC đưa # 500 công an, nhân viên đến đàn áp giáo hữu cách rất thô bạo : đánh đập, bóp cổ, bắt giam... để quyết không trả đất. Hiện giáo dân Nguyệt Biều vẫn còn tiếp tục đấu tranh.

8- Từ 1975, GHCGVN không còn cơ sở làm phim giáo dục, không còn đài phát thanh, nhà in, tạp chí, nhật báo... VC độc quyền thông tin, ngôn luận. Hai tuần báo "Công giáo và Dân tộc" và "Người Công giáo Việt Nam" là hai tạp chí do đảng CSVN chủ trương và nuôi sống. "Bản tin Hiệp Thông" là tập san do HÐGMVN xin xuất bản, in được 3 số, rồi bị cấm, vừa cho in lại số thứ 4 tháng 12-2000 (kể cả 6 số chui là 10 số). Quyền tự do ngôn luận hoàn toàn vắng bóng tại Việt Nam. Ðiều 19 về tự do ngôn luận trong Công ước Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1966, dù VC ký xin gia nhập năm 1982, nhưng VC không bao giờ muốn giữ.

9- GHCGVN từ 1975 không được phép tổ chức bất cứ một hội đoàn nào, không được phép mong ước có một đảng đối lập với đảng CSVN là đảng duy nhất độc quyền lãnh đạo mọi thứ trên toàn VN, được điều 4 trong Hiến pháp nước CHXHCNVN quy định. Ai nói đến đa đảng, đối lập là bị bắt ngay, hiện nay thì ít nhất cũng bị quản chế, cắt điện thoại, điện thư, không cho ai gặp gỡ. Ðiều 22 về tự do lập hội trong Công ước Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1966, dù VC ký xin gia nhập năm 1982, nhưng VC sợ điều 22 này như một liều thuốc tự sát, không muốn cho dân biết là có công ước này. Tuyệt đại đa số dân VN không ngờ rằng mình có quyền lập hội, lập đảng theo ý bao giờ.

10- Bản thân các Ngài Hòa Thượng Huyền Quang, Quảng Ðộ, cụ Lê Quang Liêm, linh mục Phan Văn Lợi và linh mục Nguyễn Hữu Giải hiện đang bị quản chế rất chặt chẽ. Riêng tôi thì ngay bên lề đường dẫn vào xã Phú An và đầu đường dẫn vào nhà thờ An Truyền đã có bảng chữ Việt - Anh : Restricted Area No Trespassing. Chẳng những chúng tôi không được đi ra khỏi ranh giới đó mà tất cả mọi người qua lại đều bị đẩy lui, khám xét, đánh đập, bắt giam. Nếu là người nước ngoài thì càng bị ngăn cấm. Tối 9-4-2001, dân biểu Lars Rise, Na Uy, đã thăm tôi và đã bị bắt, bị trục xuất khỏi VN ngay tức khắc sau khi bị tịch thu gần hết các sổ sách phim ảnh ghi chép.

II- Một phương pháp đàn áp tôn giáo tinh vi nguy hiểm bậc nhất : VC sử dụng sự dối trá tràn lan thành hệ thống, làm hư hỏng lương tâm tôn giáo và xói mòn giáo lý các Tôn giáo, cụ thể là Công giáo.

Mọi người dân Việt Nam hiện nay, dù lớn, dù nhỏ, đều phải biết nói dối để tồn tại, để xuôi thuận công việc. Sự dối trá đã được VC sử dụng một cách thành thạo, trở nên nguyên tắc trong mọi sinh hoạt của dân chúng và nhất là trong các cơ quan nhà nước, khiến các tôn giáo, trong đó có Công giáo, bị áp lực quá mạnh, buộc lòng biến chất theo, không còn nguyên tuyền thánh thiện nữa. Ðây là một hình thức làm băng hoại các giá trị tôn giáo thâm độc bậc nhất, để đi theo một tôn giáo mới, tôn giáo thờ phượng Hồ Chí Minh:

1- Trong giáo dục : Từ mẫu giáo, các giáo viên đã buộc phải nói dối khi khai báo thành tích nuôi dạy của mình, không phải để cấp trên biết rõ tình hình thực tế về các học sinh, mà cốt ý để rêu rao thành tích giả dối của mình. Các em bị lường gạt để "kính yêu bác Hồ vĩ đại" ngay từ lúc 3-4 tuổi. Chính các nữ tu giáo viên các lớp mẫu giáo cũng bị buộc phải dạy các em thơ "kính yêu Hồ Chí Minh" bằng nhiều bài hát, chuyện kể, mặc dù chính các nữ tu này hoặc không biết HCM là ai, hoặc biết rõ là "một nhân vật đại gian ác siêu cao thủ, lường gạt được gần cả thế giới" mà vẫn cứ dối trá dạy các em nhỏ "kính yêu" như thật vậy.

Sự dối trá này cứ tăng dần lên làm sao để chứng minh một cách giả dối là lớp mình phụ trách không thể có học sinh yếu kém. Cấp 1 từ lớp 1 - 5 không được có học sinh ở lại lớp. Tất cả các học sinh bị buộc phải lên lớp. Các ủy ban xã buộc các trường trong xã làm hồ sơ giả để chứng minh tất cả các thiếu niên trong toàn xã đều đã học xong lớp 9. Trong khi các em bị bỏ học phải đi chăn trâu bò, đánh giày, bán kem... còn đầy dẫy. Xã Thủy Biều, Huế là một bằng chứng.

Các học sinh, sinh viên tốt nghiệp kiếm được việc làm không phải vì giỏi mà chủ yếu vì có tiền hoặc có người thân đang là VC hỗ trợ.

2- Trong y tế: Bệnh nhân được điều trị tận tâm không phải vì bệnh nặng mà chủ yếu là do túi tiền nặng và bao thư lót tay dày.

3- Trong kinh tế - xã hội: Tiêu chuẩn giao tiếp trong kinh tế xã hội là biết khéo léo dối trá luồn lách.

4- Trong văn hóa - chính trị : Một hệ thống tuyên truyền hùng hậu của VC từ bóa chí đến truyền thanh, truyền hình không bao giờ nhằm trình bày sự thật mà chỉ nhằm trình bày cái tốt đẹp giả dối của VC mà thôi. Thuê người làm chứng giả, thuê VC giả làm giáo hữu tố cáo linh mục, thuê người làm tài liệu giả, thuê phụ nữ quyến rũ linh mục. Buộc nhân viên làm bài ủng hộ đảng CSVN đã soạn sẵn, chỉ chép lại nguyên văn bài nào cũng giống nhau, ký tên để chứng tỏ số người đang say mê tin đảng CSVN là 100% công nhân viên. Ai từ chối chép lại như thế bị đe dọa đuổi việc. Có công ty thấy bị lố quá nên tạm ngưng.

Mỗi phường, xã có nhiều loa phóng thanh lớn. Từ 4, 5 giờ sáng, và từ 4, 5 giờ chiều, các loa này được phóng hết công suất ra rả tuyên truyền những bài dối trá, buộc mọi người phải nghe suốt năm như thế. Nhà thờ, nhà chùa nào tỏ ra không chịu tin VC thì hướng loa vào đúng ngay nhà thờ, nhà chùa ấy mà phát thanh đúng giờ kinh, lễ. Nhà thờ An Truyền, nơi tôi đang bị quản chế, đang bị 3 loa phóng thanh rất mạnh như thế.

Bầu Hội đồng Nhân dân các cấp và Quốc hội cả nước cũng chỉ là một hình thức lừa bịp dân chủ. Dân bị buộc đi bầu những ai Ðảng đã chọn rồi. Ai không đi bầu thì gặp nhiều rắc rối trong cuộc sống ngay, ví dụ không làm giấy khai sinh cho con cái được...; các linh mục, tu sĩ bị ép buộc ghi tên ứng cử thì chắc chắn là trúng cử trên 90%. Vì Ðảng cần có bằng chứng là Công giáo cũng ủng hộ VC. Ðó thực sự là những tay sai bù nhìn như tượng nộm. Ðức cố Hồng y Giuse Maria Trịnh Như Khuê, TGM Hà Nội từ 1954-1975, đã từ chối không chịu đi bỏ phiếu kiểu giả dối ấy và đã bị quản chế chặt trong tòa Giám mục Hà Nội, cho đến tháng 8-1975 mới được đi Rôma nhận chức Hồng y.

5- Trong hành chánh : Thủ tục giấy tờ rườm rà đầy sáo ngữ. Người dân nào cũng phải cúi đầu viết những công thức hành chánh giả dối để được xuôi thuận công việc, nếu không thì hồ sơ mình không hợp lệ, không được nhận.

Gần 50 năm trong chế độ VC, có lẽ tôi là người đầu tiên gạch bỏ các từ "Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc" đầu mỗi giấy tờ hành chánh và thay bằng "Thiếu độc lập - Mất tự do - Không hạnh phúc". Hiện nay đã có học sinh bắt chước tôi không viết. Nhà trường dọa đuổi học, nhưng sợ ồn ào. Có lẽ các em đó sẽ không được tốt nghiệp.

Có một bài thơ tôi đã được học từ năm 1953, lúc đó tôi 6 tuổi, về Cộng sản Quốc tế, nay càng chính xác ở Việt Nam:

Cộng sản dối trá

Dối thiên dối địa dối vô cùng,

Dối giấy dối tờ dối tứ tung,

Dối từ đất Âu sang đất Á,

Dối từ Xuân Hạ đến Thu Ðông.

Dối phỉnh thằng ngu phủi đít không,

Dối mãi dối hoài không hết dối.

Xin chân thành cám ơn Quý vị đã vui lòng nghe.

Xin kính chào.

           

Back to Home Page