Tân Bình Quê Hương Tôi

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Tân Bình Quê Hương Tôi!

Lm JB. Nguyễn Hữu Thy

Tới nay đúng một nữa thế kỷ đã trôi qua, nhưng tôi vẫn chưa hề quên được cái ngày đầy xúc động và đau buồn, khi chúng tôi tất cả 80 người giáo dân thuộc Giáo Xứ Tam Ða, gồm người lớn và trẻ em, ai nấy đều rưng rưng hai hàng nước mắt và lòng đầy ngậm ngùi vào nhà thờ xứ quê tôi ở Hà Tĩnh để đọc kinh từ giã nơi chôn nhau cắt rốn và lên đường di cư vào Nam lập nghiệp. Ðặc biệt nhất là khi bài hát "Trên Con Ðường Về Quê Mà Vắng Bóng Mẹ" được cất lên, mọi người đều khóc sướt mướt, không sao hát hết trọn bài.

Ðúng vậy, vì do hoàn cảnh kinh tế cực kỳ khó khăn lúc bấy giờ ở Bắc Việt, chính quyền xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh đã chính thức cấp giấy thông hành cho phép chúng tôi được di cư vào Nam sinh sống một thời gian vào khoảng sáu tháng, để tránh nạn đói đang hoành hành khủng khiếp tại quê nhà. Thật là lưu luyến bịn rịn trong giờ chia tay, giữa cảnh bà con ruột thịt đã từng bao thế hệ sống quấn quít gắn bó bên nhau sau những lũy tre xanh ấm cúng, giữa những hàng cau dãy mít thân thương! Thế mà nay kẻ đi người ở lại!

Ðoàn di cư chúng tôi được chính bà Chủ tịch Ủy Ban Xã và một anh công an cùng đi theo xe, cốt để tiễn chân và giữ an ninh dọc đường cho chúng tôi, bắt đầu từ Hà Tĩnh vào tới vĩ tuyến 17 nằm trên dòng sông Thạch Hãn. Hôm đó đúng vào ngày Lễ Lá, 1955.

Quảng đường từ Hà Tĩnh vào tới vĩ tuyến 17, biên giới phân chia Nam Bắc lúc bấy giờ, chỉ dài trên dưới 200km, và ngày nay với xe hơi người ta chỉ cần mất khoảng ba giờ đồng hồ là có thể vượt qua được, nhưng năm xưa xe chúng tôi đã phải mất một tuần lễ mới chạy hết quảng đường đó. Nghĩa là mỗi ngày xe chở chúng tôi chỉ di chuyển được khoảng 30km. Ðối với các thế hệ trẻ ngày nay, có lẽ đó là một điều không thể tin được, nhưng lại là điều có thật. Ðiều đó muốn nói lên khả năng kỷ thuật của xe hơi lúc bấy giờ còn thô sơ như thế nào, nhưng nhất là nói lên tình trạng cực kỳ tồi tệ của đường sá vào thời hậu chiến tranh. Vâng, vào lúc bấy giờ từ đường sá, nhà cửa, ruộng vườn và cả đến thân thể con người, tất cả đều còn mang nặng trên mình dấu tích tàn phá và đổ nát đau thương của chiến tranh 1939-1945 giữa quân đô hộ Pháp/Nhật và quân đội Việt Minh.

Sau khi chúng tôi bắt tay từ giã bà Chủ tịch xã và anh công an tại cầu Bến Hải để bước sang miền đất đang do quân đội Pháp bảo hộ lúc bấy giờ, trước hết chúng tôi được đưa tới tạm trú trong một trại tiếp cư tại thị xã tỉnh Quảng Trị. Ở Quảng Trị khoảng một tuần lễ thì chúng tôi lại được đưa vào Ðà Nẵng, tạm trú cũng vào khoảng một tuần lễ nữa. Sau cùng chúng tôi được một chuyến tàu thủy Ba-lan chở từ Ðà Nẵng chạy thẳng vào Nha Trang, nơi chúng tôi đã được Ủy Ban Di Cư chấp thuận theo đơn của chúng tôi xin trước đó.

Khi đến Nha Trang, chúng tôi được phép cắm lều tạm trú bên bờ biển cát trắng, bên kia là sân bay Nha Trang, dưới những rặng cây xi lau ngày đêm theo từng làn gió biển dịu mát thổi vào, đã thi nhau tấu lên những khúc nhạc thiên nhiên thần tiên nghe thật vui tai. Khi tới Nha Trang tất cả chúng tôi đều vô cùng vui mừng và liền cử phái đoàn lên trại định cư Tân Bình thuộc xã Suối Vĩnh, quận Suối Dầu lúc bấy giờ để tham quan cảnh vật và để xem xét tình hình tại chổ. Trong lúc đó, số bà con ở nhà nóng lòng trông mong từng giờ từng phút các ông đại diện trở về, để được biết tin tức về miền "Ðất Hứa" Tân Bình, thật hoàn toàn không khác tâm trạng của Tổ phụ Mai-sen và con cái Ít-ra-en xưa kia chút nào: Trước khi họ sắp tiến vào Ðất Hứa Canaan, đã cử một phái đoàn đi dò thám và ở nhà đã hồi hộp chờ tin tức! Thế rồi mãi tới chiều tối phái đoàn của chúng tôi cũng đã trở lại, tuy có vẽ mệt mõi, nhưng ai nấy đều tỏ ra rất vui vẽ lạc quan. Chúng tôi liền bu quanh các vị đại diện để nghe họ kể lại tin tức. Các ông cho chúng tôi biết: "Trại Tân Bình do cha Nguyễn Văn Dũng thành lập và hiện ngài là cha xứ. Ðây là một miền đất trù phú, rừng núi bao la bát ngát, phía trước mặt là ruộng lúa của người địa phương rất phì nhiêu, tiến xa một chút nữa là sông ngòi và biển rộng. Ðây đúng là một miền đất quá thuận lợi cho các nghề sinh sống quen thuộc của đa số bà con chúng ta, là: nông, công, ngư, tiều. Ðặc biệt nhất là cha xứ cũng như Ban Trị Sự của Trại Tân Bình và bà con đang sinh sống ở đó rất vui vẽ đón tiếp và mong chúng ta mau lên đó định cư...". Thế là từ đó, chúng tôi luôn luôn sẵn sàng khăn gói quả mướp và nóng lòng chờ đợi ngày chính quyền cho xe đến đón đi lên Tân Bình. Tuy vậy, chúng tôi cũng phải chờ mãi một tuần lễ sau mới được thỏa mãn ước mơ lần đầu tiên được đặt chân lên "miền đất hứa" Tân Bình.

Sau hơn một giờ xe chạy, chúng tôi đã tới nơi. Trước hết, đoàn xe tạm dừng bánh trước cửa nhà thờ tạm của trại với mái tôn vách gỗ (cùng vị trí với ngôi nhà thờ xứ hiện tại, tuy khuôn viên nhà thờ lúc bấy giờ nhỏ hẹp hơn hiện nay). Cha xứ Nguyễn Văn Dũng và toàn thể bà con vui vẽ ra tiếp đón chúng tôi, ai nấy tay bắt mặt mừng, như cảnh anh em ruột thịt đoàn tụ sau bao ngày xa cách vậy. Tiếp liền sau đó, đoàn xe chở chúng tôi vào tạm trú trong những chiếc lều nhà binh bằng vải đã được dựng sẵn trên một bãi cỏ rộng rãi và sạch sẽ, đối diện với một căn nhà khá dài, lợp tranh vách đất của các "O Nhà Mụ". Ðó chính là địa điểm thuộc khuôn viên nhà dòng Mến Thánh Giá bây giờ, nói chính xác hơn, đó là dằm đất của căn nhà nuôi trẻ hiện tại của các Sơ.

Còn số bà con đã đến định cư trước chúng tôi, vào khoảng trên dưới 1,000 người. Họ đã dựng được bốn dãy nhà mái lợp tranh vách trát đất trộn rơm nằm, nằm thẳng hàng phía trước nhà thờ xứ, trông rất tươm tất đàng hoàng. Và ước mơ của chúng tôi lúc bấy giờ cũng chỉ mong muốn được như vậy thôi. Ðặc biệt nhất là cha Nguyễn Văn Dũng cũng như tất cả số bà con đến trước đó đều là người từ tỉnh Quảng Bình vào. Cũng vì thế, trại định cư được ngài đặt cho cái tên rất duyên dáng là Tân Bình, và có nghĩa là Quảng Bình mới. Còn số bà con mới đến sau này đều từ Hà Tĩnh và Nghệ An vào. Vì thế trong cuộc sống giao lưu tiếp xúc hằng ngày, do lý do "ngôn ngữ bất đồng", đã không thiếu những sự hiểu lầm nhau một cách đầy kỳ thú đã xảy ra. Ở đây tôi chỉ đưa ra một vài trường hợp điển hình. Chẳng hạn, có lần cha xứ nhờ mấy anh thanh niên Nghệ Tĩnh khiêng hộ cho ngài chiếc tủ bằng gỗ rất đẹp lên phòng của ngài nằm trên căn gác xép, ngài đã dặn đi dặn lại: "Mấy ôông khi khiêng lên trên côi như rứa là lo cẩn thận kẻo làm lọi tủ của cha". Thế là mấy anh thanh niên chỉ nhìn nhau cười chứ đâu có hiểu cha xứ muốn dặn gì. Biết ý, cha liền vui vẽ vừa cười vừa nói: "Cha nói trên côi và lọi, còn các ôông lại nói là trên cao và gãy, thì cũng giôống chắc"; hay lần kia có một bà người Quảng Bình quen biết bà cụ tôi và tìm đến thăm, sau khi biết chúng tôi chỉ có hai anh em trai thôi, bà liền hỏi bà cụ tôi: "Rứa ả không có mẹt mô cả hỉ?" Bà cụ tôi liền trả lời: "Vì mới đến, chưa có chi phơi cả, nên chưa mua sắm mẹt làm gì cho chật nhà!" Thế rồi khi hai bà biết mình hiểu sai nhau, liền nhìn nhau cười. Vì theo kiểu nói bình dân người Quảng Bình gọi con gái là "mẹt", còn người Nghệ Tĩnh lại hiểu mẹt là một loại giống như cái nống hay cũng được gọi là cái nia, được đan bằng tre, nhưng nhỏ hơn cái nia.Và giữa những người Hà Tĩnh và Nghệ An, vì do giọng nói khác nhau, nên cũng không thiếu những hiểu lầm nhau một cách rất thú vị. Chẳng hạn, một lần kia có hai người đàn bà sống bên cạnh nhà nhau, một bà người Hà Tĩnh còn bà kia người Nghệ An, thế rồi một bà mới mua được con cá chép và định đưa về kho, liền gặp bà kia và hỏi phải nấu sao cho ngon, bà này liền vui vẽ trả lời ngay: "Nọ cò chi khò cá, bá cừ bò mữa, bò ẻ vố lá ngon", ý bà ta muốn nói là: "Nõ có chi khó cả, bà cứ bỏ mỡ, bỏ hẹ vô là ngon", nhưng bà kia vì chẳng hiểu ất giáp gì cả, nên chỉ mĩm cười từ giã ra về.

Nhưng vào những năm tháng buổi đầu đó, không chỉ trong đời sống giao tiếp với nhau còn vướng mắc trước những cản trở nho nhỏ như vậy, đặc biệt cảnh vật thiên nhiên của Tân Bình lúc bấy giờ cũng hoàn toàn còn rừng rú hoang sơ lắm. Thật vậy, con đường từ nhà thờ đi về phía nhà dòng Mến Thánh Giá bây giờ, trước kia chỉ là một lối mòn nhỏ làm ranh giới phân biệt giữa nhà dòng các Sơ và rừng rậm, nghĩa là phía bên phải là nhà của các Sơ và lều bạt tạm trú của chúng tôi, còn phía trái kể từ nhà ông Tuyến đến nhà bà Châu Biện bây giờ trở vào trong còn là rừng rậm âm u, nơi cư trú của đủ thứ dã thú như cọp, beo, nai, heo rừng; và nếu đi vào sâu một chút nữa cho tới nghĩa địa mới nằm dưới chân núi Hòn Thẻ bây giờ, là giang sơn bất khả xâm phạm của các chú voi rừng. Còn chúng tôi mỗi lần vào rừng chặt gỗ hay cưa cây về làm nhà, chúng tôi chỉ đi vào sâu quá lắm là tới con đường quốc lộ số một bây giờ. Vì thế, cha xứ và ban quản trị trại lúc bấy giờ luôn căn dặn chúng tôi là lúc đêm hôm đừng ra ngoài trại một mình, vì vào ban đêm cọp beo đi săn mồi rất nguy hiểm.

Sau đó vài ba tháng, khi số bà con di cư mới đã tiếp tục đổ vào khá đông, chính quyền đã cho một đoàn xe ủi về dọn sạch khu rừng rậm kia và đồng bào bắt đầu chia lô bắt thăm và làm nhà. Và kể từ đó cho tới ngày nay, quê hương Tân Bình bắt đầu mỗi ngày một phát triển mạnh mẽ về đủ mọi mặt. Về dân cư: từ con số 2,000 đã vượt lên gần 4,000 nhân danh. Về văn hóa: xây dựng được đủ các loại trường học - từ Mẫu giáo, Tiểu học, đến Trung học - và đã đào tạo được hàng ngàn con em trong xứ thành những người có trí thức và hữu ích cho xã hội, đặc biệt trong số đó có gần 20 vị Linh Mục và hàng trăm Tu Sĩ Nam Nữ thuộc tất cả các Dòng Tu, ở trong nước cũng như ở ngoại quốc. Về kinh tế: từ cảnh sống rẫy bái, kiếm ăn bằng củ sắn củ mì và nhà cửa từ những ngôi nhà mái tranh vách đất, mưa xuống giột trước giột sau, ngày nay bà con Tân Bình đã có được một cuộc sống hoàn toàn ổn định, nhà cửa mái tranh vách đất đã biến dần và nay được thay thế bằng những ngôi biệt thự sang trọng, bằng những toà nhà lầu bê-tông cốt sắt tân tiến, và hiện nay hầu như nhà nào cũng đều có một hay hai chiếc xe gắn máy làm phương tiên giao thông, nếu không nói là nhiều gia đình còn sắm được cả xe hơi nữa. Nhưng có lẽ điểm son đáng ghi nhận và đáng hãnh diện của Tân Bình ngày nay, là Tân Bình thực sự đã trở thành quê hương của mọi người sinh sống trong đó: Họ đều hiểu nhau, hiểu ngôn ngữ của nhau, đều coi nhau như anh em ruột thịt, chứ không còn phân biệt Quảng Bình, Nghệ An hay Hà Tĩnh, không còn phân biệt Nam hay Bắc, lương hay giáo nữa. Tất cả đều có chung một tâm tình quê hương. Tất cả đều đùm bọc và tương trợ lẫn nhau! Ðó thực sự là điểm son, là điều văn minh tiến bộ đáng được vinh danh nhất của đồng bào Tân Bình.

Riêng cá nhân tôi, khi ngồi trong Văn phòng Giáo Xứ của tôi tại Cộng Hòa Liên Bang Ðức, giữa lòng Âu Châu xa xôi, để viết lên những dòng "hồi ký" này, dựa theo lời mời của cha Phan Văn Hướng, là người bạn quen biết từ lâu năm của tôi và đồng thời cũng là Linh mục Quản Xứ hiện tại của Giáo Xứ Tân Bình, lòng tôi không khỏi bồi hồi xúc động khi có dịp hồi tưởng lại bao tình cảm thân thương và bao ân huệ sâu đậm mà tôi đã được lãnh nhận từ Tân Bình Quê Hương Tôi. Tôi có thể nói được rằng tất cả những gì tôi có được ngày hôm nay đều đã được ấp ủ, khởi sự và đã được phát triển trong những bước đầu tại quê hương Tân Bình. Ðúng vậy, vì hoàn cảnh xã hội khó khăn ngoài Bắc lúc bấy giờ, nên khi vào tới Tân Bình, tuy tôi đã 12 tuổi đời rồi mà vẫn chưa biết đọc biết viết. Mãi vào năm 1956 khi công cuộc định cư của chúng tôi ở Tân Bình đã tạm ổn, tôi mới bắt đầu cắp sách tới trường, mới bắt đầu tập đánh vần A,B,C, mới bắt đầu tập làm các bài toán cộng trừ nhân chia. Và thời gian cứ thế trôi qua. Ðến năm 1966 tôi đậu Tú Tài toàn phần và tiếp sau đó tôi tốt nghiệp Ðại học Văn khoa Saigon vào năm 1971. Cũng trong năm đó tôi được đề cử sang du học tại Ðại Học Fribourg, Thụy Sĩ vùng nói tiếng Pháp. Năm 1981, sau mười năm theo học tại Thụy Sĩ, tôi đã được Giáo Hội Công Giáo Ðức mời sang phụ trách công tác Mục Vụ trong các Giáo Xứ người Ðức và điều khiển các lớp Giáo Lý. Công tác đó kéo dài cho tới hôm nay.

Hiện nay, tuy chưa hội đủ điều kiện thuận lợi để trở về sống hẳn ở quê hương Tân Bình và còn phải tiếp tục bôn ba trên đất khách quê người, nhưng lòng tôi không bao giờ quên hướng nhìn về Tân Bình với tất cả lòng cảm mến và biết ơn chân thành. Vì chính nơi đây đã khai quang đời sống tinh thần cho tôi, chính nơi đây bao thầy giáo khả kính đã dày công dìu dắt tôi trong từng bước chập chững buổi đầu trên con đường trí tuệ, chính nơi đây tôi đã được trải qua những năm tháng của tuổi thơ đầy êm đẹp, và sau cùng chính nơi đây gia đình và bạn bè tôi đang sinh sống. Tân Bình thực sự là quê hương của tôi! Bởi vậy, mỗi lần có dịp trở lại thăm Tân Bình lòng tôi luôn tràn ngập hân hoan khi chứng kiến quê hương tôi mỗi ngày mỗi thay da đổi thịt, mỗi ngày mỗi đi lên theo kịp với đà tiến bộ văn minh của cả dân tộc và của thế giới. Ðồng thời, trên con đường xây dựng và phát triển của quê hương Tân Bình, nếu tôi, theo khả năng cho phép, đã và sẽ có thể đóng góp được gì cho quê hương, tôi luôn luôn coi đó là một nghĩa vụ linh thiêng và là niềm vinh dự rất đáng tự hào. Cuối cùng, để mừng thượng thọ Ngũ Tuần, 50 năm thành lập của quê hương Tân Bình: 1955-2005, tôi xin gửi tặng bà con đồng bào Tân Bình sáu câu thơ lục bát:

Tân Bình cảnh đẹp người hiền,

Khuyên ai dừng bước tới miền bồng lai!

Tân Bình lắm ổi nhiều dừa,

Dân tình đạo đức lại vừa hiền ngoan!

Tân Bình trên thuận dưới hòa,

Thiên Chúa, Tổ Quốc mặn mà kính yêu!

Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi, qua lời bầu cử của Mẹ Maria, của Thánh Cả Giuse và của các Thánh Tử Ðạo Việt Nam anh hùng, chúc lành và ban cho Quê Hương Tân Bình mọi ơn phúc Thiên Ðàng, sự bình an, tinh thần đoàn kết, và nghĩa tình đồng bào ruột thịt!

 

Lm JB. Nguyễn Hữu Thy

(CHLB Ðức, Mùa Xuân 2006)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page