Lược Sử

Giáo Phận Hưng Hóa

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

A. Lược Sử Giáo Phận Hưng Hóa

Năm 1673, Xứ Ðoài đã là một trong 7 xứ đầu tiên ở Ðàng Ngoài, Công đồng Bắc Hà họp lần đầu tiên tại Ðàng Ngoài đề cử cha Giacôbê Chiêu coi sóc. Với khởi điểm này, việc truyền giáo cho người dân Hưng Hóa được thực hiện từ cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) (1627-1630), hay Gaspar d'Amaral (1631-1638) rồi các cha dòng Tên đến sau. Từ năm 1670, thêm các cha thuộc Hội Thừa Sai Paris cùng với các linh mục, tu sĩ và giáo dân Hưng Hóa, nổi bật 7 vị thánh (nguyên quán và phục vụ) cùng nhiều vị chứng nhân đã đóng góp hết mình vào trang sử hào hùng của giáo phận Ðoài, sau này là giáo phận Hưng Hóa.

Từ năm 1659, Tòa Thánh thành lập hai giáo phận ở Việt Nam, vùng Hưng Hóa (Xứ Ðoài) thuộc giáo phận Ðàng Ngoài, do Ðức cha Francois Pallu coi sóc. Trong tập Lịch sử Nước Annam do Bentô Thiện gửi cho cha Marini năm 1659 viết: "Santei xứ (Sơn Tây xứ) đựac mườiy (được mười) nhà thánh".

Năm 1679, Tòa Thánh phân chia giáo phận Ðàng Ngoài thành Ðông và Tây, Xứ Ðoài (Hưng Hóa) đã có nhiều giáo xứ và giáo hữu như: năm 1673, Xứ Ðoài được cha Giacôbê Chiêu coi sóc; năm 1707, riêng cha Giuông Hậu coi sóc 2,000 giáo hữu. Các cha dòng Tên phục vụ tại hai nơi trong Xứ Ðoài: Kẻ Blùng có 52 nhà thờ và nhà nguyện, 3,960 giáo hữu; An Tập có 87 nhà thờ và nhà nguyện, 5,344 giáo hữu; tổng cộng 9,340 giáo hữu. Năm 1712, số giáo hữu hai nơi này lên tới 15,462.

Năm 1846, Tòa Thánh phân chia giáo phận Tây Ðàng Ngoài thành giáo phận Nam và Tây, vùng đất Xứ Ðoài (Hưng Hóa) phát triển thành nhiều giáo họ, giáo xứ thuộc giáo phận Tây do Ðức cha P.A. Retord Liêu coi sóc.

Ngày 15-4-1895, Ðức Lêô XIII đã cho tách 3 tỉnh: Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang thuộc giáo phận Tây, để thành lập giáo phận mới lấy tên gọi giáo phận Ðoài, hay còn được gọi là giáo phận Tông Tòa Thượng Du Bắc Kỳ (Tonkin Supérieur), và đặt Ðức cha Paul Raymond Lộc làm giám mục tiên khởi. Khi thành lập, giáo phận Ðoài (Hưng Hóa) có 16,950 giáo hữu, 24 linh mục (12 thừa sai), 53 tu sĩ, 28 tiểu chủng sinh, 11 giáo xứ, 96 giáo họ.

Năm 1924, Tòa Thánh đổi tên các giáo phận ở Việt Nam theo địa bàn hành chính nơi đặt tòa giám mục, giáo phận Tông Tòa Ðoài đổi tên thành giáo phận Tông Tòa Hưng Hóa, Ðức cha Paul Raymond Lộc coi sóc. Từ khi nhận coi sóc giáo phận đến năm ngài nghỉ hưu (1938), giáo phận Hưng Hóa tăng từ con số 16,950 đến 64,233 giáo hữu, 58 linh mục Việt Nam, 22 linh mục thừa sai, 42 giáo xứ, 435 giáo họ, 44 người nhà mụ.

Ngày 2-5-1950, tòa giám mục, nhà thờ chính tòa, trường thử (tiểu chủng viện) bị thiêu hủy toàn bộ do chiến tranh và tạm thời di dời về thị xã Sơn Tây.

Ngày 24-11-1960, Tòa Thánh thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, đồng thời nâng giáo phận tông tòa Hưng Hóa lên hàng giáo phận chính tòa và đặt Ðức cha Phêrô Nguyễn Huy Quang làm giám mục chính tòa đầu tiên, thuộc giáo tỉnh Hà Nội.

Ðức cha Phêrô Nguyễn Huy Quang cai quản giáo phận từ năm 1960-1985. Tiếp theo lần lượt có Ðức cha Giuse Phan Thế Hinh (1985-1989), Ðức cha Giuse Nguyễn Phụng Hiểu (1989-1992). Giáo phận trong tình trạng trống tòa (1992-2003) và được các linh mục giám quản coi sóc: linh mục Phaolô Ðinh Tiến Cung (1992-1998) và linh mục Giuse Nguyễn Thái Hà (1998-2003).

Ngày 5-8-2003, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm linh mục Antôn Vũ Huy Chương, giáo sư Thần Học Tín Lý Ðại Chủng Viện Cần Thơ, làm giám mục Hưng Hóa.

B. Ðịa Lý và Dân Số

Ranh giới: Giáo phận Hưng Hóa nằm trên miền Tây Bắc, Bắc Việt Nam. Phía Bắc giáp Trung Quốc; phía Tây giáp Lào; phía Tây Nam giáp Thanh Hóa và Phát Diệm; phía Ðông Nam giáp Hà Nội và Bắc Ninh; phía Ðông Bắc giáp Bắc Ninh và Lạng Sơn. Một giáo phận bao gồm 10 tỉnh: Lào Cai, Lai Châu, Ðiện Biên, Hòa Bình, Hà Tây, Phú Thọ, Yên Bái, Hà Giang và Tuyên Quang. Tổng diện tích 54,352 km2.

Tổng dân số trên địa hạt giáo phận là 7,145,623 người. Số giáo dân Công giáo là 192,283 người. Dân chúng đa số làm nghề nông - lâm nghiệp. Số rất ít còn lại làm tiểu - thủ - công nghiệp.

Núi: Dãy Hoành Liên Sơn: có đỉnh cao gọi là Phanxipăng (3,143m), tiếng H'mông là Phán Si Pản, có nghĩa là 3 phiến đá to phẳng. Dãy Núi Voi: nằm xen giữa hai dãy núi Hoàng Liên Sơn (hữu ngạn) và dãy Núi Voi (tả ngạn). Núi Ba Vì (Tản Viên Sơn): thuộc xã Ba Vì, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.

Sông: Có 5 con sông lớn: Sông Hồng (còn gọi là Sông Thao), Sông Ðà (còn gọi là Sông Bờ), Sông Lô (người Pháp đặt tên là Rivère Claire), Sông Chảy, và nhỏ hơn là con sông Nậm Thị, biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa.

Sắc tộc: giáo phận Hưng Hóa có tới 39 sắc tộc, thực tế mới kiểm chứng được 17 sắc tộc: Kinh (85%), Mèo (H'Mông), Mường, Tày, Nùng, Thái, Dao, Sán Chay, Khờ Mú, Hà Nhì, Lào, La Chí, Phù Lá, Sán Chỉ, và Bố Y...

C. Một số đặc điểm của giáo phận

1. Nhà Thờ chính Tòa:

Nhà thờ xứ Sơn Lộc (Tông), thuộc xã Trung Sơn Trầm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây, nay gọi là nhà thờ Chính Tòa của giáo phận. Nhà Thờ có kiến trúc tương đối rộng lớn, kiên cố nhất giáo phận.

2. Ðền Thánh hay Trung tâm Hành hương:

- Pháp Trường Năm Mẫu, Gò Sói, Ðền Thánh Tử Ðạo: đều nằm chung quanh các thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.

- Ðền thánh Ðoàn Văn Vân: được xây cất trong khuôn viên nhà xứ Nỗ Lực, xã Thụy Vân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

- Ðền Thánh Phêrô Vũ Văn Truật: được xây cất tại khuôn viên nhà xứ Hà Thạch (Kẻ Thiệc là quê hương của ngài), xã Hà Thạch, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

3. Những hoạt động đặc biệt của giáo phận:

Hưng Hóa là một giáo phận gặp rất nhiều khó khăn:

- Về kinh tế: Hưng Hóa trải rộng trên miền thượng du và trung du, nên đời sống vật chất thiếu thốn và phát triển chậm.

- Về tri thức: Là giáo phận có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, nên văn hóa thấp, hầu như lạc hậu. Giáo phận thành lập được 99 năm mới có một linh mục đi du học.

- Nghèo về nhân sự: linh mục, tu sĩ quá ít. Hiện chỉ có 24 linh mục, 102 nữ tu (trong đó có 37 chính thức). Giáo phận lại trống tòa 11 năm, nay mới có giám mục coi sóc.

Ðứng trước muôn ngàn khó khăn, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đang cố gắng phát triển về công tác đào tạo:

Ðào tạo các vị trong Ban hành Giáo, Hội Ðồng Giáo Xứ. Mỗi vị được giáo phận đài thọ đi học 7 ngày mỗi năm. Ngoài ra còn có những buổi họp, tĩnh tâm tại các giáo xứ; hằng năm có tổ chức đại hội 3 ngày tại tòa giám mục.

Ðào tạo các giáo lý viên các cấp I, II, III, bồi dưỡng mặt tâm linh để họ có khả năng phục vụ giáo họ, giáo xứ, giáo phận.

Củng cố và phát triển các đoàn thể, các giới, giúp nhau sống "tột đạo đẹp đời" tại các gia đình, giáo xứ, giáo họ.

Vun trồng ơn gọi "dâng mình trong nhà Chúa" bằng cách động viên, nâng đỡ về tinh thần cũng như vật chất, để các em có điều kiện theo ơn gọi trong giáo phận.

Giáo phận đã ra nghị quyết chung ngày 11-2-1999, quyết tâm thi đua trong toàn giáo phận, xây dựng giáo xứ trưởng thành với 4 tiêu chuẩn mục vụ.

một cộng đoàn đức tin vững mạnh,

một cộng đoàn phụng tự sốt sắng,

một cộng đoàn bác ái huynh đệ,

một cộng đoàn truyền giáo.

Các họ đạo sẽ cố gắng lập quỹ khuyến học và quỹ tình thương để nâng đỡ các em học sinh nghèo, giỏi, và những gia đình khó khăn, hoặc gặp tai nạn, thể hiện sự yêu thương chia sẻ.

 

(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page