Những Suy Tư Thần Học Việt Nam

Giáo Sư Trần Văn Ðoàn, Taiwan National University

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 


Ðôi Lời Cảm Tạ

 

Tuy từng theo học thần học tại La Mã, Innsbruck và Tùbingen (1969-1976), chúng tôi không dám coi mình như là chuyên gia thần học. Thực vậy, chúng tôi chưa bao giờ chuyên nhiệm giảng dạy môn thần học trong bất cứ đại học viện nào. Ngoại trừ những bài thuyết trình tại một số viện Thần Học ở Ðại Hàn, Ðài Loan, Nhật, Ðức và Mỹ, tác giả chỉ từng mở hai khoá học duy nhất về thần học tại viện Thần Học Ðại Nam và viện Thần Học Ðài Loan. Cái mỹ tước thần học gia chỉ nên dành cho những nhà thần học có óc sáng tạo và chuyên nghiệp. Mặc dù thế, chúng tôi cần phải xác định một cách rõ ràng nơi đây, đó là việc người viết chưa hề lơ lãng với những vấn đề sôi bỏng trong nền thần học hiện đại, và vẫn tiếp tục nghiên cứu những tác phẩm của nhiều thần học gia như Karl Rahner, Walter Kasper, Johannes B. Metz, Hans Kueng, Urs von Balthasar, Marie Dominique Chenu, Yves Congar, Edward Schillebeeckx, Joseph Ratzinger, Karol Woztyla (đương kim giáo chủ Gioan-Phaolô II), vân vân, các nhà thần học tin lành như Karl Barth, Paul Tillich, Rudolph Bultmann, Dietrich Bonhoeffer, và nhất là phong trào thần học giải phóng với những tác phẩm của Gustavo Gustierrez, Leonardo Boff, Luigi Segundo và của các nhà thần học Á châu như Tissa Balasuriya, Raymundo Panikkar, Song Choan-seng, Albert Chang S.J., Kosake Koyama, Antony de Mello S.J., và thần học Dân Chúng (Minjung) của Ðại Hàn. Tác giả đặc biệt theo dõi nền thần học Việt Nam qua các tác phẩm của các thần học gia Việt cũng như qúy học giả quan tâm tới thần học Việt như Phan Ðình Cho, Vũ Kim Chính, Bùi Văn Ðọc, Hoàng Sỹ Quý, Lương Kim Ðịnh, Vũ Ðình Trác, Trần Văn Hiến Minh, vân vân.

Cần phải xác định như vậy, bởi lẽ, trong tư thế một giáo dân, khi cho xuất bản những bài viết liên quan tới thần học, chúng tôi rất ái ngại và lo âu. Lẽ tất nhiên, sự lo âu không phải chỉ vì ý thức được sự thiếu sót cũng như giới hạn của mình, mà hơn thế nữa, nhận ra trước những sự hiểu lầm không thể tránh được. Người cầm bút càng thêm ái ngại với những lời phê bình có tính cách cá nhân (argumentum ad hominem) của một số (ít) giáo sĩ, nhất là nơi một vài vị trong giới lãnh đạo Giáo hội Việt. Theo thành kiến của các ngài, thì người giáo dân nếu có biết chi đi nữa thì cũng nên "dựa cột mà nghe," bởi vì không những họ xác tín về sự ngu độn, mà còn coi sự vâng lời phục tùng của đàn chiên đối với người mục tử như là một tín điều bất khả ngộ và bất khả vi phạm. Ý thức như thế, nên lưỡng lự bao nhiêu năm mà không dám viết và xuất bản về thần học bằng Việt ngữ. Nay nhận thấy ý thức về một nền thần học Việt đã chín mùi, và đã đến lúc mà mỗi người ưu tư về tư tưởng Việt bắt buộc phải đóng góp một cái gì, dù nhỏ bé tới đâu, cho kho tàng nghiên cứu thần học Việt, nên chúng tôi mới mạo muội cho ra mắt độc giả những suy tư thần học này. Vả lại, xuất bản những suy tư này cũng để đáp lại những khuyến khích của một số thần học gia đồng nghiệp, nhất là để hoàn thành mộng ước của triết gia Kim Ðịnh, người bạn già đồng hành, từng cô đơn trên con đường xây dựng tư tưởng nước nhà. Cũng cần phải thú nhận là, những suy tư trong tập sách này chỉ là những ý kiến vụn vặt, cá nhân, thiếu hệ thống, được viết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, do nhu cầu phục vụ dân Chúa, và giáo hội Việt Nam. Như độc giả thấy, chúng tôi không có tham vọng, và không dám bạo gan bạo phổi đưa ra một nền thần học mới lạ gì, bởi vì thâm tín rằng "chẳng có chi mới lạ dưới ánh sáng mặt trời cả" (nihil novum sub sole). Chúng tôi càng xác tín rằng, tư tưởng nhân loại không phải chỉ hình thành trong một ngày, mà qua cả một lịch sử dài đằng đẵng với những đóng góp của toàn nhân loại. Ý thức được sự khả ngộ và bất túc của mình, nên tác giả luôn sẵn sàng đón nhận tất cả những lời chỉ giáo của tất cả các thần học gia cũng như các bậc thức giả thiện chí. Dẫu rằng trí thức hạn hẹp, dẫu rằng lực bất tòng tâm, chúng tôi luôn xác tín vào tương lai của tư tưởng dân tộc, về giá trị của Việt tộc, và do đó tin rằng Việt thần đã manh nha và đương phát triển. Sự kiện là tại quốc nội cũng như nơi hải ngoại, các nhà thần học Việt đương nỗ lực xây dựng một nền thần học cá biệt của người Việt, chứng minh một cách gián tiếp sự chính xác của hướng đi mà chúng tôi đeo đuổi. Xác tín như vậy, chúng tôi theo câu châm ngôn bất hủ của đại thi hào Alghieri Dante mà Karl Marx - một nhà bác học mà dẫu rằng chúng ta yêu hay ghét - từng trích để an ủi mình trong lời nói đầu của tuyệt tác Tư Bản Luận, Tập 1: "Hãy tiếp tục con đường của anh, thây kệ người ta nói."

Chúng ta biết, giữa triết học và tôn giáo, và giữa tôn giáo và thần học vẫn có những điểm chung mà bất cứ một thần học gia nghiêm túc nào, bất cứ một nhà nghiên cứu tôn giáo đứng đắn nào, và bất cứ một triết gia nào cũng phải bàn đến, đó là vấn đề của con người, đó là định mệnh, đó là trường sinh. Và tất cả những vấn đề trên đều là nòng cốt của văn hóa, của thần học, của tôn giáo, của khoa học, và lẽ dĩ nhiên, của triết học.

Ý thức như thế, chúng tôi tuy dùng chữ thần học, song thực sự cũng có thể hiểu như là nhân học, bởi vì, ngay cả khi bàn về thần, thánh, chúng tôi vẫn coi con người như là một trung điểm và trọng điểm. Song nền nhân học này không phải là một chủ thuyết duy nhân (tức nhân bản vô thần, atheist humanism) hay tự nhân coi con người là trung tâm (anthropocentrism), bởi lẽ con người không phải là trung tâm hay là điểm duy nhất. Chỉ có Thiên Chúa mới là trung tâm và là cùng đích của thần học và ngay cả nhân học. Lịch sử của cứu rỗi là lịch sử của con người được cứu rỗi. Ðức Kitô hạ phàm, nhập thể làm người, cũng là vì con người. Vậy nên, chúng ta phải nói, trọng tâm (xin đừng hiểu nhầm là trung tâm) của thần học chính là con người. Thực thế, ngay khi Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, Ngài đã nhập thế. Khi Ngài sai Thần Tử nhập thế, con Người đã chọn phương cách nhập thể, tức làm người trần thế y hệt như chúng ta. Emmanuel (Ðấng Cứu Ðộ), Kitô (Người được sức dầu, tức được đặc chọn) đã mặc lấy thân xác của Giêsu, một con người bình thường như tất cả mọi người khác (trừ tội lỗi), con của bác thợ mộc Giuse tại một thị trấn nhỏ bé tên là Nazareth, và con của bà Maria, một người mẹ mẫu mực, như tất cả các hiền mẫu nội trợ khác. Người là đấng Giải phóng (Messiah), song giải phóng con người theo phương thế của chính con người. Sự việc nhập thế, nhập thể của Thiên Chúa nói lên rằng, chính con người cũng là mục đích của thần học. Thần học do đó không chỉ là môn học về Thần, về thánh, mà còn về chính con người tìm cách để đạt tới thế giới thần linh, để thành Thánh, thành Phật.

Từ một khía cạnh khác, sự kiện Thiên Chúa dựng nhân loại theo hình ảnh của Ngài, cũng như ban cho con người vinh dự được tham dự vào mầu nhiệm sáng tạo, ủy thác cho con người quyền chủ tể quản trị chúng sinh, nói lên vai trò bất khả khuyết của họ. Nhờ vào khả năng sáng tạo Chúa ban này, họ cũng tác tạo ra một thế giới thần linh theo hình ảnh của thế giới loài người. Và họ quên khuấy rằng chính Thiên Chúa đã ban cho con người một năng lực có thể trở thành thần linh, chứ không phải một uy quyền tác tạo thần linh. Vậy thì, sự việc nghiên cứu tôn giáo một cách chung, hay cách thế mà con người dùng để biểu tả thần linh, để tôn kính thần thánh, hay để tìm hiểu thánh ý, hay để thành Thánh, thực ra cũng là một nghiên cứu về con người, về khả năng, về ước vọng, về cội nguồn cũng như về niềm hy vọng vào tương lai của họ. Ðây là một quan niệm rất quan trọng của lối tư duy đông phương: thành Thánh trong Nho giáo, thành Phật trong Phật giáo, Thiên nhân hiệp nhất trong Ðạo giáo. Câu nói của thánh Phaolô (?) "Con người là gì mà Chúa phải bận tâm?" không phải chỉ là một câu hỏi đặt ra với Chúa, song cho chính con người đương ưu tư về định mệnh của mình; cho tất cả mọi nhà khoa học bao gồm cả thần học gia lẫn triết gia đương tìm kiếm sự tuyệt đối hay thần tính của con người. Phaolô là nhà thần học đầu tiên đã nhận ra vai trò bất khả khuyết của con người trong lịch sử cứu độ. Tương tự, khi đặt ra bốn câu hỏi,: "Con người là gì?" "Chúng ta biết chi?" "Chúng ta phải làm gì?" và "Chúng ta hy vọng sao?" Immanuel Kant, nhà triết gia vĩ đại của nhân loại, đã muốn nhấn mạnh đến con người như là nền tảng cho mọi khoa học. Tất cả những suy tư trên đều tương hợp với nhận xét sâu sắc của đức Khổng: "Chưa biết gì về người thì nói về Trời làm gì?" Nói một cách chung, nền thần học của hôm nay, và đặc biệt của Á châu và của người Việt, là một nền thần học tự Thiên song vị nhân (ex Deo sed pro homine), kính Thiên để ái nhân (adorare ut amare), tin Thiên song vụ nhân (credere ut servare), và nhất là một nền thần học Thiên nhân tương dữ.

Từ những ưu tư trên, chúng tôi cho xuất bản tập sách này với một tựa đề rất khiêm tốn, song cũng mang tính chất thách đố cho chính người viết: Những Suy Tư Thần Học Việt Nam. Tuy chỉ là những suy tư nhỏ mọn, vụn vặt, chúng nói lên một ước vọng đi tìm một câu trả lời cho câu hỏi "người Việt chúng ta nghĩ về, sống với và cảm thông về chính con người, thần thánh, định mệnh... như thế nào?" Một nền thần học Việt (Việt Thần) không nên chỉ dựa theo lối suy tư, lối sống và lối cảm nghiệm của người Do Thái, La Mã hay Tây Phương về Thượng Ðế, song phải phát xuất từ ngay cảm tính của người Việt, từ chính lối sống của dân Việt, và theo cách suy tư của tộc Việt về chính mình, về định mệnh của mình. Ðó chính là một suy tư về Nhân tính, về Thiên tính, về Thần tính về Thánh tính và về Linh tính của mình. Ước mong rằng, những suy tư này có thể đóng góp phần nào vào công cuộc xây dựng một nền thần học Việt mà giáo hội Kitô giáo (Công giáo và Tin Lành) Việt, mà các nhà thần học Việt đương đeo đuổi và xây dựng.

Những suy tư thần học được viết lại từ những bài viết cũng như thuyết trình về thần học và tôn giáo trong gần hai thập niên tại Ðài Loan, Ðại Hàn, Nhật, Mỹ, Thuỵ Sỹ, Ðức, Hoà Lan, Áo và Nam Dương, bắt đầu với bài "Một Suy Tư Thần Học" xuất bản năm 1983 trên Dân Chúa (New Orleans) và tiếp theo với tiểu luận "Thần Học Giải Phóng Ði Về Ðâu?" vào năm 1984, do lời mời của Tập san Concilium, nguyên viết bằng Anh ngữ. Vì ngay cho tới nay, sau 15 năm, toàn bài vẫn chưa hoàn tất, nên chúng tôi chỉ cho phát biểu một phần của bài viết bằng Hoa ngữ trên Giáo Hữu Nguyệt Khan. Như độc giả sẽ thấy, chúng tôi hoàn toàn viết lại bài "Một Suy Tư Thần Học" như là phần Nhập đề, chứ không mang tính chất dò dẫm như bài năm 1983. Chương kết luận "Hướng Tới Một Nền Thần Học Việt Nam" tổng hợp từ nhiều tiểu luận như: (1) "Một Số Phản Tỉnh Về Thần Học Á Châu" nguyên bằng Anh ngữ phát biểu tại Ðại Học Diệm Thế (Yonsei) của Giáo Hội Tin Lành Ðại Hàn (Hán Thành, 1983). Bản Anh ngữ đăng trên Tập san của Các Ðại Học Kitô giáo tại Á Châu. Bản này được chúng tôi sửa và tóm gọn lại bằng Ðức ngữ đăng trên Tập san nghiên cứu Zeitschrift fur Religionswissenschaft und Missionswissenschaft của Ðức (Munster, 1985) thể theo lời yêu cầu của Ban Biên Tập dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Tập san. (2) Bài "Rahner phê bình Marx" viết bằng Hoa ngữ, theo lời mời của Thần Học Luận Tập (Collectanea Theologica) của Ðại Học Phụ Nhân, dịp lễ tưởng niệm một năm qua đời của Giáo sư Karl Rahner S.J., một thần học gia được công nhận như là một Tô-Ma (Thomas Aquinas) của thế kỷ 20, mà chúng tôi từng được diễm phúc thụ giáo với ngài tại Ðại Học Innsbruck vào đầu thập niên 1970. Bản Anh ngữ của luận văn trên phát biểu trong Fujen Philosophical Studies. Bài "Ðể Tiến Tới Một Nền Thần Học Việt Nam" trước hết chỉ là một dàn bài để thảo luận tại cuộc hội thảo thần học Việt Nam tổ chức tại Tu Viện Xitô Ðức Mẹ Fatima (Monastère de Notre Dame de Fatima), Orsonnens, Thụy Sỹ. Vì bài này mang tính chất dàn bài, tạm thời nên không có ý cho xuất bản. Tập san Ðinh Hướng từng xuất bản (1997), rồi sau đó Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ xuất bản lại bài trên trong một tập sách riêng biệt, ngoài ý định (song không phải ngoài ý muốn) của tác giả. Mặc dù thế, chúng tôi vẫn cần phải cám ơn Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ nơi đây. Một luận văn mang tính cách dàn bài để thảo luận, lẽ tất nhiên quả còn tạm bợ, mang quá nhiều thiếu sót. Chính vì vậy, chúng tôi hoàn toàn viết lại các bài trên, như độc giả sẽ thấy trong chương 6 tức chương tạm kết. Bản Anh ngữ, theo lời yêu cầu của Giáo sư Bernhard Waldenfelds S.J., được dịch sang Ðức ngữ và sẽ phát biểu trong Tập San Nghiên Cứu Tôn Giáo của Ðại Học Bonn, Ðức Quốc. Các bài "Sinh Tử trong Nho Giáo," "Mạt Thế Luận trong Ca Dao Tục Ngữ," "Sát Nhập, Hội Nhập, Bản Cách Hóa," và "Ðối Thoại giữa Khổng Giáo và Kitô Giáo" đều là những bài thuyết trình cho các khóa học của Viện Triết Học và Tôn Giáo Việt Nam tại Washington, D. C. và Orange County vào những mùa hè (1998, 1999 và 2000), sau đó phát biểu trên Tập San Nghiên Cứu Triết Học và Tôn Giáo Việt Nam, Thời Ðiểm và trên nhiều mạng thông tin điện tử như Vietcatholic, Vietnamese Missionaries in Taiwan, Veritas, Simonhoadalat, vân vân. Những quan niệm căn bản trong bài "Ðối Thoại giữa Nho Giáo và Kitô Giáo" thực ra đã từng diễn đạt trong một luận văn khác phát biểu vào dịp chúng tôi được vinh hạnh bầu làm Viện sỹ Hàn Lâm Viện Paulusgesellschaft (Ðức-Áo, 1987), và sau đó lập lại tại Hội Nghị Triết Gia Công Giáo Á Châu năm 1993. Bài này được hoàn tất sau bài thuyết trình tại Hàn Lâm Viện Xã Hội Quốc Gia tại Bắc Kinh năm 1997, song sửa chữa lại cho khoá học năm 2000 tại Orange County.

Tác giả xin chân thành cám ơn các Tập san nghiên cứu trên đã cho phép chúng tôi sửa, viết lại hay chuyển dịch sang Việt ngữ và tái xuất bản các tiểu luận trên trong luận tập này. Tác giả xin biểu tả lòng biết ơn một cách đặc biệt tới các Giáo sư Arnold Sprenger S.V.D., Walter Kasper, Bernhard Waldenfels S.J., Tiến sỹ Hồng Miên Hùng S.J. (Hung Chin-hung +1997), Giáo sư Tiền Trực Thuần (hiện là Giám Mục Giáo phận Hoa Liên), cũng như Giáo sư Leovino Garcia (Ateneo de Manila University) đã có nhã ý mời chúng tôi đóng góp bài cho các tập san nghiên cứu Concilium, Zeitschrift fur Missionswissenschaft und Religionswissenschaft, Monumenta Serica (Bonn), Collectanea Theologica Fujenensis, Fujen Philosophical Studies, The Asian Journal of Philosophy và Bonner-Religionsforschung. Chúng tôi cũng không quên cảm tạ lời mời đóng góp của các bằng hữu như Giáo sư Phan Ðình Cho, nhân sỹ Nguyễn Ðăng Trúc, cũng như những lời cổ võ của Hiệp Hội Simon Hòa Ðà Lạt, đặc biệt sư đệ Ðào Ngọc Ðiệp và phu nhân, và các bằng hữu đồng nghiệp khắp đó đây, Giáo sư Vũ Kim Chính S.J. (Ðại Học Phụ Nhân), Linh mục Trương Văn Phúc (Taiwan) Thạc sỹ Trần Cao Tường, Giáo sư Viện sỹ Lý Chấn (Gabriel Ly) (Academia di San Tommaso), Giáo sư Luis Gutheinz S.J. (Ðại Học Phụ Nhân và Ðại Học Innsbruck), Tiến sỹ Vũ Ðình Trác (Mỹ), Giáo sư Viện sỹ Johannes B. Metz (Ðại Học Mùnster và Vienna), Giáo sư Michael Zievernich S.J., Giáo sư Peter Knauer S.J. (Ðại HoÏc Frankfurt), Giáo sư John Farrelly SDB, Giáo sư George F. McLean OMI (Ðại Học Công Giáo Mỹ), Tiến sỹ Nguyễn Ðình Tuyển, (Viện trưởng Tu Viện Fatima, Orsonnens, +1998), Giáo sư Lương Kim Ðịnh (+1997), Tiến sỹ Erich Kellner (Viện trưởng, Hàn Lâm Viện Paulus Gesellschaft, Áo-Ðức, +1994). Riêng đối với Giáo sư Zievernich, Viện trưởng Viện Triết Học và Thần Học Sankt Georgen đã có nhã ý mời chúng tôi tham dự chương trình nghiên cứu về "Tác Ðộng của Vatican II sau 50 Năm" và giữ chức vụ phối hợp viên phụ trách hai miền Trung Hoa và Việt Nam, cũng như hai linh mục Tiến sỹ Hà Văn Minh (Frankfurt) và Thạc sỹ Ngô Công Hoan S.J. (Muenchen), đã từng nhận lời phụ tá chúng tôi trong chương trình nghiên cứu phần về Việt Nam, người viết muôn vàn cảm kích. Tác giả cũng ghi nhận lòng cảm ơn đối với những cổ võ và khích lệ của các học viên, hay tham dự viên của Viện Triết Học và Tôn Giáo Việt Nam (tại Washington, D.C. và Orange County), Ban Giáo sư và sinh viên các Viện Thần Học Sankt Georgen (Ðại Học Frankfurt), Viện Thần Học Ðài Loan tại Dương Minh Sơn (Ðài Bắc), Viện Thần Học Tin Lành Ðài Nam, Phân Khoa Truyền Giáo Học Ðại Học Gregoriana, Viện Tôn Giáo Học, Hàn Lâm Viện Trung Hoa, Bắc Kinh, Trường Tôn Giáo Học, Ðại Học Bắc Kinh và Viện Thần Học Ðại Học Tùbingen. Sự phản ứng (cổ võ hay phê bình) nồng nhiệt của họ về những bài giảng thuyết làm chúng tôi thật cảm động. Tác giả cũng xin thành thật bày tỏ lòng biết ơn hai thư viện của Viện Thần Học Ðại Học Phụ Nhân (với Giáo sư Trần Xuân Linh S.J. (Joseph Chen +1987), nguyên Giám đốc Thư viện) và Viện Triết Học và Thần Học Sankt Georgen, Ðại Học Frankfurt, đã dành cho chúng tôi đặc phép sử dụng tư liệu phong phú của họ. Sau cùng, nhân dịp này tác giả xin được tỏ lòng ghi nhớ công ơn của các vị ân sư tại Tiểu Chủng Viện Simon Hòa Ðà Lạt, tại các Viện Thần Học, Ðại Học Urbano (Roma, Ý), Ðại Học Laterano (Roma, Ý), Ðại Học Innsbruck (Áo), và Ðại Học Tubingen (Ðức), đặc biệt các Giáo sư Luigi Bogliolo SDB, Carlo Molari, Cornelio Fabro, Emmanuele Testa OFM, Paolo Valori S.J., Emerich Coreth S.J., Otto Muck S.J., Hans Rotter S.J., Karl Rahner S.J. (+1984), và Hans Kueng. Câu tục ngữ "Không Thầy đố mày làm nên" nói lên một cách hùng hồn sự thật mà người viết luôn ý thức và xác tín như một giáo điều của giới hàn lâm. Tác giả đặc biệt tâm niệm lời khuyến khích dạy bảo của Linh mục Trần Bảo Thạch, nguyên Giám Ðốc Tiểu Chủng Viện Simon Hòa, Tổng Giám Mục Pellegrino Ronchi, nguyên Viện Trưởng Học Viện Collegio di San Paolo (Roma), Linh mục Robert Miribung S.J., nguyên Giám Ðốc Học Viện Collegium Canisianum (Innsbruck). Tập sách này xin được gửi về quý ân sư như là một kết quả nhỏ mọn của người học sinh đương cố gắng đáp lại những lời dạy bảo, khuyến khích của quý Thầy.

 

Thụy Sơn Trần Văn Ðoàn

Viện Triết Học và Tôn Giáo Việt Nam, Washington, D. C. 2001.

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page