Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý
Về Mạc Khải Của Thiên Chúa
Dei Verbum
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương V
Tân Ước 37*
17. Sự trổi vượt của Tân Ước. Là sức thiêng cứu rỗi mọi tín hữu (x. Rm 1, 16), lời Chúa được trình bày cách tuyệt diệu trong các sách Tân Ước, và diễn tả quyền năng của Ngài. Thực vậy, khi đến thời viên mãn (x. Gal 4,4). Ngôi Lời đầy tràn ân sủng và chân lý đã nhập thể và ở giữa chúng ta (Gio 1,14). Chúa Kitô đã thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian. Người mạc khải Cha Người và Chính Mình qua lời nói, việc làm và hoàn tất công trình Người khi Người chết, sống lại, lên trời vinh hiển và khi Người sai Chúa Thánh Thần đến. Bị treo lên khỏi đất (x. Gio 12,32, bản Hylạp), Người kéo mọi người đến với Mình, Người là Ðấng duy nhất có những lời ban sự sống vĩnh cửu (x. Gio 6,68). Nhưng mầu nhiệm này chưa bao giờ được tỏ cho các thế hệ khác biết, nay đã được mạc khải trong Thánh Thần cho các Thánh Tông Ðồ Người và cho các Tiên Tri (x. Eph 3,4-6, bản Hylạp), để họ rao giảng Phúc Âm, cổ võ lòng tin vào Chúa Giêsu, Ðấng được xức dầu và là Chúa, để đoàn tụ Giáo Hội. Những việc này, các sách Tân Ước đã minh chứng với một bằng chứng có giá trị vĩnh viễn và thần linh 38*.
18. Sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông Ðồ. Mọi người đều biết rằng trong tất cả các sách thánh, kể cả những sách Tân Ước, các sách Phúc Âm xứng đáng chiếm địa vị ưu đẳng, vì Phúc Âm là chứng tá chính yếu về đời sống và giáo lý của Ngôi Lời Nhập Thể, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta.
Trong mọi thời và khắp nơi, Giáo Hội đã và đang quả quyết rằng bốn sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông Ðồ 39*. Thực vậy, những gì các Tông Ðồ rao giảng theo lệnh Chúa Kitô, sau này nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, chính các ngài và những người sống bên các ngài viết lại và lưu truyền cho chúng ta như nền tảng đức tin: đó là Phúc Âm trình bày dưới bốn hình thức: theo Thánh Mattheô, Thánh Matcô, Thánh Luca và Thánh Gioan 1.
19. Phúc Âm có tính cách lịch sử. 40* Mẹ thánh Giáo Hội luôn luôn quả quyết lịch sử tính của bốn Phúc Âm, cũng như đã mạnh mẽ và liên lỉ xác nhận bốn sách Phúc Âm trung thành ghi lại những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, khi sống giữa loài người, thực sự đã làm và đã dạy vì phần rỗi đời đời của họ, cho tới ngày Người lên trời (x. CvTđ 1,1-2). Thực vậy sau khi Chúa về trời, những gì Người đã nói, đã làm thì các Tông Ðồ, sau khi đã được hiểu biết cách đầy đủ hơn 2 - sự hiểu biết mà chính các ngài hưởng thụ được nhờ các biến cố vinh hiển của Chúa Kitô và ánh sáng của Thần Chân Lý 3 - các ngài đã truyền lại cho những ai nghe các ngài. Phần các thánh sử đã viết bốn Phúc Âm: các ngài chọn một ít trong số chất liệu được truyền lại bằng miệng hay bằng sách vở, tóm tắt một số khác hay tùy hoàn cảnh của các Giáo Hội mà giải thích thêm, nhưng vẫn giữ hình thức của bài giảng thuyết và như vậy để luôn chân thành truyền đạt cho chúng ta những điều chân thật về Chúa Giêsu 4. Thực vậy, dựa trên trí nhớ hay kỷ niệm riêng tư, hoặc dựa trên chứng tá của những người "đã chứng kiến từ buổi đầu và trở nên thừa tác viên của lời Chúa", các thánh sử đã viết các sách Phúc Âm với mục đích giúp chúng ta nhận biết rằng các lời mà chúng ta đã nghe dạy dỗ đều là "chân thật" (x. Lc 1,2-4).
20. Các sách khác của Tân Ước. Ngoài bốn Phúc Âm, danh sách Tân Ước còn ghi lại các thư Thánh Phaolô và những bút tích khác của các Tông Ðồ đã được viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần. Các bút tích này, theo ý định khôn ngoan của Thiên Chúa chứng thực những gì đã được nói về Chúa Kitô, trình bày giáo lý đích thực của Người ngày một rõ ràng hơn, rao truyền sức mạnh cứu độ của công trình thần linh của Chúa Kitô, và kể lại những bước đầu, sự bành trướng kỳ diệu cùng tiên báo sự kết thúc vinh hiển của Giáo Hội. 41*
Thực vậy, Chúa Giêsu đã hiện diện bên các Tông Ðồ như Người đã hứa (x. Mt 28,20) và đã sai Thánh Thần An Ủi đến để dẫn dắt họ đến sự viên mãn của Chân Lý (x. Gio 16,13).
Chú Thích:
37* Trong lược đồ thứ nhất, chương này hầu như có tính cách hoàn toàn minh giáo và tiêu cực. Sau đó người ta đã soạn thảo lại theo một tinh thần cởi mở hơn. Nhưng thực sự, chương này hầu như chỉ bàn về các Phúc Âm. (Trở lại đầu trang)
38* Bản văn này phát xuất từ bản thảo thứ ba. Câu thứ nhất được coi như luận đề mà cả số này trình bày. Theo tư tưởng của chương I, Tân Ước là chính Chúa Giêsu và công trình của Người. Trong khi hoàn tất Cựu Ước, Tân Ước mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như Người Cha. Bản văn không nói Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo Hội (Giáo Hội xuất hiện vào thời các Tông Ðồ). Như thế người ta chấp nhận sự phân biệt giữa "Nước Chúa" và Giáo Hội (x. GH 5,8). Hoạt động của Chúa Giêsu được đặt trong lịch sử và ngày nay vẫn còn thực hiện. Bản văn dùng động từ ở thì hiện tại: Ngài "kéo" thay vì "đã kéo" của lược đồ trước. Tiếng "mầu nhiệm" chỉ Chúa Kitô và công trình của Người chứ không đúng y như nghĩa của Thánh Phaolô. Lưu ý mục đích truyền giáo của Mạc Khải. (Trở lại đầu trang)
39* Giá trị chứng tá của các sách Phúc Âm là thiết yếu đối với Giáo Hội. Nhưng trước kia cách thế bênh vực giá trị đó không được thích hợp cho lắm, khi đặt nền tảng trên hai lý do: các Thánh sử trung thực và thấu đáo vấn đề. Ðiều này buộc phải chứng minh rằng các ngài là Tông Ðồ hay môn đệ các Tông Ðồ; nhưng theo lịch sử, sự kiện đó không chắc chắn. Vì thế bản văn bỏ qua vấn đề này. Cùng với Thánh Truyền, Công Ðồng xác nhận rằng các Phúc Âm "bắt nguồn từ các Tông Ðồ" và truyền lại cho chúng ta dưới hình thức "theo Thánh Mattheô..." v.v... Nguồn gốc này là lời rao giảng hay Phúc Âm truyền khẩu. Mối liên lạc giữa lời rao giảng và Thánh Kinh được Chúa Thánh Thần bảo đảm; nguồn mạch của Phúc Âm được rao giảng là chính Chúa Kitô. (Trở lại đầu trang)
1 Xem T. Ireneô, Adv. Haer. III, 11,8: PL 7, 885, x. b. Sagnard, trg 194. (Trở lại đầu trang)
40* Lịch sử tính của các sách Phúc Âm là điểm quan trọng của Hiến chế. Lược đồ thứ nhất nặng tính cách bút chiến và kết án các lầm lạc của những người nghi ngờ những câu chuyện thời thơ ấu và những cuộc hiện ra v.v... Thái độ này nghịch với tinh thần của Ðức Gioan XXIII (x. AAS 54 (1962) 792) và giả thiết một ý niệm về chân lý lịch sử nặng tính cách khoa học hơn là Thánh Kinh, như có thể tìm thấy nơi những văn kiện chính thức, ví dụ: "các bản văn phải tương xứng với những sự kiện như đã xảy ra trong thực tế" (Tđ. Spir. Paraclitus, EB số 457). Nhưng khoa chú giải đã minh chứng rằng hiểu lịch sử Thánh Kinh theo cách này là sai. Các nhà bác học cũng đã minh chứng việc soạn thảo Phúc Âm rất phức tạp: phải lưu tâm đến những truyền thống khác nhau, những thích ứng trong khi rao giảng, vai trò của các cộng đoàn sơ khai v.v... Nhiều Nghị Phụ sợ rằng lịch sử tính sẽ lu mờ nếu lướt qua phương pháp "văn hình sử". Các cuộc bàn cãi sôi nổi, kéo dài, và các Nghị Phụ đã xin Ðức Giáo Hoàng can thiệp để tiếng "lịch sử" được giữ lại trong bản văn. Trong khi đó, để giúp giải quyết các vấn đề, Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh đã phát hành một Huấn Thị về Phúc Âm (14-5-1964). Sau cùng bản văn được chấp thuận đã loại bỏ mọi nghi ngờ về lịch sử tính của Phúc Âm; đó là một chân lý mà Giáo Hội quả quyết bằng đức tin và lý trí (đã và đang quả quyết). Nhưng "lịch sử" trong Phúc Âm lại là một loại đặc biệt, phải xác định sau khi nghiên cứu văn loại của từng đoạn. Phúc Âm truyền đạt cho chúng ta "những điều chân thật và trung thực" về Chúa Giêsu; như thế nghĩa là: những điều chính thực không bị thay đổi; phải hiểu tiếng "điều chân thật" theo như đã nói ở số 11. Tóm lại, Phúc Âm không phải là một bản phúc trình về những biến cố đã qua, nhưng là một lời truyền bá những sự kiện quan hệ cho ơn cứu độ. (Trở lại đầu trang)
2 Xem Gio 2,22; 12,16; So sánh với 14,26; 16,12-13; 7,39. (Trở lại đầu trang)
3 Xem Gio 14,26; 16,13. (Trở lại đầu trang)
4 Xem Huấn dụ Sancta Mater Ecclesia do Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh xuất bản: AAS 56 (1964), trg 715. (Trở lại đầu trang)
41* Số này không bị thay đổi mấy. Nó xác quyết rằng Tân Ước, ngoài Phúc Âm, còn có nhiều bản văn khác, nhưng không nêu ra danh sách. Theo Công Ðồng những bản văn này có nội dung:
a) thần học: dùng những lý chứng để xác quyết sứ mệnh của Chúa Kitô. Số này chấp nhận có sự tiến triển nội tại của Tân Ước, đặc biệt trong Kitô học và Giáo Hội học.
b) giảng thuyết: lời rao giảng về Chúa Kitô.
c) lịch sử: Công vụ Tông Ðồ thuật lại những "bước đầu" của Giáo Hội; người ta đã dùng chữ "bước đầu" thay cho chữ "tổ chức" ở trong bản thảo trước.
d) tiên tri: loan báo ngày kết thúc (Khải Huyền). (Trở lại đầu trang)