Một Cuộc Hành Trình Thiêng Liêng

Tìm hiểu khóa linh thao theo thánh I-nhã

Linh Mục Ðinh Văn Trung, SJ, Việt Nam

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


NHỮNG BÀI TẬP TIẾP THEO
MỤC ÐÍCH

1. Bài tập ba (s. 62-63).

Bài tập ba là bài lặp lại bài tập một và hai trên kia, như chính nhan đề của nó đã nói rõ. Nhưng có một cái mới là phần tâm sự. So sánh phần tâm sự này với những phần tâm sự của bài tập một và hai, chúng ta thấy có hai điểm khác. Thứ nhất, phần tâm sự của bài tập ba tập trung vào việc xin ơn, trong khi phần tâm sự của bài tập một và của bài tập hai không nói gì đến ơn xin. Thứ hai, phần tâm sự của bài tập một chưa nói đến quyết tâm sửa mình, chỉ mới gợi ý qua câu: "Ðiều tôi phải làm cho Ðức Kitô"; phần tâm sự của bài tập hai tiến xa hơn một bước khi nói rõ: "Quyết tâm từ nay sửa mình"; phần tâm sự của bài tập ba, nhấn mạnh hơn nữa quyết tâm này qua việc xin các ơn như sẽ thấy dưới đây.

Người tĩnh tâm trước hết than thở với Ðức Maria. Họ không xin Ðức Maria ban ơn - Ðức Maria không phải là Ðấng ban ơn - nhưng họ xin Ngài thỉnh hộ ba điều nơi Ðức Kitô, Ðấng mà bản văn ghi rõ là "Con ngài và là Chúa"; và điều này hàm ý rằng Ðức Maria, với tư cách người mẹ, xin với Ðức Kitô, Ðấng vừa là con Ðức Maria vừa là Chúa của muôn loài muôn vật. Ðây là lần đầu tiên trong sách Linh thao một bài suy ngắm, ở phần tâm sự, nói rõ đến việc cầu xin cùng Ðức Maria như một Ðấng trung gian giữa những con người và Ðức Kitô. Việc tâm sự với Ðức Maria được kết thúc bằng một kinh Kính mừng Maria.

Thứ đến, người tĩnh tâm xin Ðức Kitô để Ngài, với tư cách con của Thiên Chúa, xin Ðức Chúa Cha ban cho mình những ơn mà họ đã trình bày với Ðức Maria. Họ kết thúc bằng kinh "Lạy linh hồn Chúa Kitô."

Sau cùng, người tĩnh tâm cầu xin trực tiếp với Ðức Chúa, và họ kết thúc bằng một kinh Lạy Cha.

Hình thức cầu xin theo thứ tự là cầu xin Ðức Maria rồi Ðức Chúa Con và sau cùng đến Ðức Chúa Cha, sẽ còn được dùng ở bài Hai lá cờ hiệu (s. 147), bài Ba hạng người (s. 156), bài Ba kiểu khiêm nhường (s. 168), và cả ở những bài chiêm niệm tiếp theo bài Ba hạng người (xem s. 159; 161), tức là, theo nguyên tắc, từ ngày thứ năm trở đi của Tuần Hai cho đến hết Tuần này. Ðó là những chỗ mà hình thức cầu nguyện theo thứ tự kia được nhắc đến cách minh nhiên; ngoài ra, một chỗ khác thuộc Tuần Ba nhắc rằng có thể làm ba thứ tâm sự theo kiểu trên đây khi người tĩnh tâm được đề tài suy ngắm hay sự sốt sắng thúc đẩy (s. 199,4-5).

Ơn xin trong phần tâm sự của bài tập ba gồm ba điều như sau.

Ðiều thứ nhất: xin được "cảm thấy cái biết bên trong về các tội của tôi và chán ghét nó." Sự chán ghét này là hậu quả của việc cảm thấy cái biết bên trong. Từ chán ghét (aborrecimiento) xuất hiện lần đầu tiên ở đây, và sẽ còn được dùng hai lần nữa (ở dạng động từ) ở những dòng tiếp theo. Về cái biết, khi nói đến cái biết về tội, bản văn dùng thêm từ bên trong: cái biết bên trong về tội; nhưng cách đó mấy dòng, khi nói đến cái biết về thế gian, bản văn bỏ từ bên trong. Vậy thiết tưởng có sự phân biệt hữu ý giữa hai cái biết, và ít ra riêng ở đây có sự gợi ý rằng mỗi cái biết tương ứng với một đối tượng: một đàng cái biết có đối tượng là bản thân, cách riêng ở đây là tội (tội cốt ở ý hướng, nên nó chủ yếu là "ở trong lòng") và gọi đó là cái biết bên trong, một đàng là cái biết về ngoại vật, tức cái biết có đối tượng ở bên ngoài con người. Chúng ta sẽ có dịp bàn kỹ hơn về cái biết bên trong (hoặc nội tâm). Bản văn còn nói đến việc cảm thấy cái biết bên trong. Như chúng ta đã rõ, cảm thấy là điều thuộc tình cảm hoặc thuộc giác quan. Vậy nói cảm thấy cái biết, điều này cho phép chúng ta hiểu rằng cái biết nói đây không chỉ có tính cách khách quan lạnh lùng thuộc lý trí, mà còn là cái biết được cảm nghiệm, tức cái biết trong đó có sự tham dự của cảm tính hay của con tim. Ở Tuần Hai, bài tập ba cũng nói đến cảm thấy cái biết (s. 118,3).

Ðiều thứ hai là xin được "cảm thấy sự lệch lạc trong các hoạt động của tôi để do chán ghét chúng mà tôi sửa mình và tự chỉnh đốn". Tội là một hoạt động lệch lạc; nhưng hoạt động lệch lạc có nghĩa rộng lớn hơn tội, vì tất cả những hoạt động nào dẫn tới phạm tội hoặc hướng tới phạm tội, đều là lệch lạc, lệch lạc do không hướng về cùng đích đời người mà bài Nguyên lý và Nền tảng đã nêu ra. Về những hoạt động lệch lạc, có thể kể đến, ví dụ, việc vui chơi thiếu chừng mực, việc ăn uống quá độ, v.v.

Người tĩnh tâm xin cảm thấy sự lệch lạc chứ không chỉ nhận ra nó mà thôi; sự cảm thấy này, cũng như ở điều một trên, sẽ tác động vào "ý muốn" là đưa tới sự chán ghét. Chúng ta có quyền suy luận thêm rằng việc xin sự chán ghét cũng hàm việc xin sự từ bỏ cái bị chán ghét. Vì thế điều một khi xin sự chán ghét tội thì cũng hàm cả việc xin từ bỏ tội. Tuy nhiên, về mặt diễn đạt, điều một chỉ dừng lại ở xin sự chán ghét tội, và điều này có nghĩa là nó nhấn mạnh đến sự chán ghét là cái thuộc tình cảm và thái độ. Ðiều hai ở đây đi xa hơn, vì nó nêu rõ việc xin từ bỏ những hoạt động lệch lạc trong đó có tội: từ bỏ thuộc về hành động chứ không chỉ nằm trong tình cảm hay thái độ.

Ðiều thứ ba: "Xin biết thế gian để, do chán ghét nó, tôi gạt bỏ khỏi tôi những sự trần tục và phù phiếm." Ở đây thế gian được nhìn dưới góc độ là dịp hay là cớ khiến cho người tĩnh tâm bị cám dỗ ham mê nó và rồi đi tới phạm tội. Những quyến rũ hay cám dỗ của thế gian thì có nhiều, như tiền bạc, danh vọng mà người ta quen gọi là bả hoặc mồi (bả phú quý, mồi công danh). Thánh Gioan đã viết: "Mọi sự trong thế gian - ham mê của xác thịt, ham mê của con mắt và sự tin tưởng kiêu căng vào của cải - không bởi Chúa Cha, nhưng là bởi thế gian mà đến" (1 Ga 2,16). Vậy trong khi điều thứ hai trên kia nói đến từ bỏ những hoạt động lệch lạc của bản thân để khỏi tiến tới phạm tội, thì điều thứ ba này bổ túc ý tưởng sửa mình và tự chỉnh đốn bằng việc nhắc đến thế gian xét như là mồi hay dịp quyến rũ mà người tĩnh tâm phải tránh xa.

So sánh cả ba điều trình bày trên đây, chúng ta thấy có sự mở rộng dần: điều thứ nhất, nói đến sự chán ghét tội; điều thứ hai nói đến sự chán ghét những hành vi lệch lạc, đến sự sửa mình và tự chỉnh đốn; điều thứ ba nói đến sự chán ghét thế gian và gạt bỏ những cái thuộc về nó. Ðiều thứ hai và điều thứ ba ví như những hàng rào hay những vành đai kế tiếp nhau nhằm bảo đảm cho sự không phạm tội.

Tóm lại, trong những phần tâm sự của ba bài tập về tội, những suy nghĩ và tâm tình của người tĩnh tâm được trải ra và diễn tiến theo một hướng đi liên tục và nhất định. Phần tâm sự của bài tập một gợi ý về lòng khoan dung nhân từ của Thiên Chúa đối với người tĩnh tâm, về sự tri ân của họ đối với Thiên Chúa và về quyết tâm sửa mình. Sau khi đã được chuẩn bị như thế, bước sang phần tâm sự của bài tập hai, người tĩnh tâm nói rõ ra những điều gợi ý kia. Tiến đến phần tâm sự của bài tập ba, họ tập trung vào quyết tâm sửa mình; sự quyết tâm này là điểm tới hoặc kết quả của sự "đau đớn lớn lao và mãnh liệt và những giọt nước mắt vì các tội", điều mà ở mào đầu hai của bài tập hai họ đã xin Thiên Chúa ban cho và họ coi là mục đích họ nhắm tới khi suy gẫm về tội. Quyết tâm sửa mình còn là cách thức người tĩnh tâm đáp lại lòng nhân từ của Thiên Chúa đồng thời là ứng xử hợp với lòng tri ân của họ đối với Ngài. Ngoài ra, việc xin ơn ở phần tâm sự của bài tập ba là xin không những ghét tội, mà còn ghét cả những hành vi lệch lạc và những sự phù vân thế gian, càng làm nổi rõ tính cách mãnh liệt của quyết tâm sửa mình. Phần tâm sự của bài tập ba sẽ còn được dùng làm phần tâm sự trong bài tập bốn.

2. Bài tập bốn (s. 64).

Bài tập ba là bài lặp lại bài tập một và hai, còn về bài tập bốn, sách Linh thao ghi: "Bài tập bốn là lấy lại chính bài tập ba." Tuy nhiên sách Linh thao lại viết tiếp: "Ðể trí hiểu không đi lang thang, nhưng chăm chú suy nghĩ nhờ nhớ lại những điều đã chiêm niệm trong các bài tập trước". Như vậy rõ ràng không chỉ trở lại bài tập ba là bài lặp lại bài tập một và hai, mà còn trở lại cả hai bài tập này. Theo câu vừa trưng dẫn, việc lấy lại khác với việc lặp lại hiểu theo sách Linh thao như đã có dịp giải thích về việc này (xem số 62,2-3 ; 118,3). Vậy khi nói "lấy lại chính bài tập ba", điều này có nghĩa là, ngoài việc dùng lại bài tập một và hai, chú trọng cách riêng đến việc trở lại những điều đã suy gẫm ở bài tập ba ở đó có thể có cả những khám phá mới, những đào sâu mới, những thúc đẩy nội tâm mới mà người tĩnh tâm chưa tìm hay gặp được khi làm bài tập một và hai. Lại lấy lại bài tập ba, điều này còn có nghĩa là dùng lại phần tâm sự của bài tập này.

Bài tập bốn dùng từ chiêm niệm thay vì suy niệm như đã thấy trong câu trích dẫn ("nhớ lại những điều đã chiêm niệm"). Chúng ta sẽ có dịp giải thích việc chiêm niệm. Nhưng có thể nói ngay ở đây rằng trong bài tập một và hai vẫn có thể việc ngắm xen vào việc suy, tùy theo ơn soi sáng và sự thúc đẩy nội tâm, ví dụ ở bài tập một, người tĩnh tâm chiêm ngưỡng Thiên Chúa là Ðấng Tạo hóa và là Chúa của mình đã bị mình xúc phạm, chiêm ngưỡng Ðức Kitô đang chịu treo trên Thánh giá vì mình; ở bài tập hai, họ chiêm ngưỡng các thần thánh đang thương họ và thỉnh cầu cho họ trước mặt Thiên Chúa, v.v.

Tóm lược

Tội ở ngoài lịch sử, tức tội của các thần, tội ở trong lịch sử gồm tội đầu tiên của tổ tông và tội của muôn vàn thế hệ con cháu nối tiếp nhau, tất cả như làm thành một dòng chảy. Cá nhân người tĩnh tâm không những ở trong dòng chảy này, mà còn ở trong đó một cách đặc biệt về hai điểm: về số lượng lớn lao các tội của họ và về việc họ, cho tới giờ phút này, không bị án phạt, cũng nghĩa là đang được hưởng ơn cứu độ hoặc đang có thể được đón nhận ơn cứu độ vẫn có sẵn đó. Họ cảm nghiệm và xác tín về sự trầm trọng, xấu xa và tà ác của các tội đã phạm, và về lòng nhân từ của Thiên Chúa đươc biểu lộ cách riêng trong cái chết của Ðức Kitô trên Thánh giá. Ðứng trước cái tương phản vĩ đại này, nhìn vào bản thân, họ chán ghét các tội của mình, họ đau đớn ăn năn, họ quyết tâm sửa mình và khước từ những sự phù vân giả trá; nhìn lên Thiên Chúa, họ cảm tạ Ngài về tình thương vô biên của Ngài, họ tin vào tình thương của Ngài và xin ơn phù trợ để sửa mình.

Ðể bước vào khóa Linh thao, trước tất cả, qua bài Nguyên lý và Nền tảng, người tĩnh tâm có ý thức mình là loài thụ tạo với nhiệm vụ, sứ mệnh và ơn gọi là tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa. Thứ đến, qua các bài suy niệm về tội, họ có ý thức mình là kẻ có tội đối với Thiên Chúa vì không thực hiện ba công việc này; họ thấy mình được đặt trong lịch sử cứu độ và là một kẻ được cứu chuộc. Nhờ ơn Chúa, họ quyết chí từ bỏ mọi tội lỗi để sống xứng với danh nghĩa kẻ được cứu chuộc.

3. Bài tập năm: về hỏa ngục (s. 65-71).

Tiếp theo bài suy niệm về tội, là một bài suy niệm về hỏa ngục. Người tĩnh tâm suy về những hình phạt dành cho những kẻ bị sa hỏa ngục để, như bản văn ghi, "nếu tôi quên tình yêu của Chúa vĩnh cửu do các lỗi lầm của tội, thì ít ra sự sợ những cực hình giúp tôi không sa ngã phạm tội." (s. 65,5). Nên phân biệt từ lỗi lầm (faltas; culpae) với từ tội (pecado; peccatum) dùng ở đây. Những lỗi lầm là những khuyết điểm này nọ nhưng chưa phải là tội xét theo định nghĩa của thần học luân lý; tuy nhiên chúng đưa con người tới sự quên đi tình yêu của Thiên Chúa. Tội được đề cập trong bản văn là tội trọng, vì bản văn nói đến sự sa hỏa ngục (do phạm tội). Giữa hai ý tưởng theo nhau là lỗi lầm dẫn tới quên tình yêu của Thiên Chúa và tội khiến phải sa hoả ngục, có mối liên hệ ngầm: vì lỗi lầm khiến quên đi tình yêu của Thiên Chúa, nên nó mở đường cho việc tiến tới phạm tội.

Như sách Giáo lý của Giáo hội công giáo đã nói, cái tình trạng con người tự khai trừ vĩnh viễn khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa, tình trạng đó gọi là hỏa ngục (số 1033). Bài suy niệm nói đến những khổ hình hỏa ngục về tinh thần (sự buồn phiền, dòi bọ rúc rỉa lương tâm) và về thể xác (bị thiêu đốt, phải ngửi mùi hôi thối, v.v.) để bảo rằng con người toàn diện bị phạt, bị khổ. Chẳng ai biết những khổ hình hỏa ngục là những khổ hình nào. Tuy nhiên những khổ hình thể xác mà sách Linh thao dựa vào truyền thống để gợi sự tưởng tượng cho người tĩnh tâm, là nhằm diễn tả, theo cách thức của chúng, cái tình trạng cực kỳ khốn nạn và bất hạnh của những kẻ bị sa hỏa ngục. Ðàng khác, họ có thể dùng loại suy để từ những khổ hình đó mà hiểu ra phần nào cái đau khổ thực sự vượt xa những đau khổ kia. Phúc âm cũng đã gọi hỏa ngục là chốn cực hình (Lc 16,28).

Theo bài suy niệm về hỏa ngục, người tĩnh tâm tiếp xúc và tiếp nhận những cái xảy ra trong hỏa ngục xét như là những đối tượng của từng giác quan. Về thị giác, họ trông thấy lửa đỏ, trông thấy tội nhân bị đốt cháy; về lửa này, Phúc âm đã nói đến (Mt 13,5; 18,8; 15,41; Mc 9,48. Xem Kh 19,20; 21,8). Về thính giác, họ nghe những tiếng than khóc, những lời phạm thượng chống lại Ðức Kitô và các thánh. Cái cảnh tượng than khóc này gợi thêm ý tưởng là mọi tội nhân đều đau khổ và không ai chú ý đến nỗi khổ của ai: họ đau khổ trong cô độc, không có người thông cảm và yên ủi. Phúc âm nói hỏa ngục là nơi có tiếng khóc lóc và nghiến răng (Mt 13,50; 22,13; 24,51; 25,30; Lc 13,28). Về khứu giác, người tĩnh tâm tưởng tượng như mình đang hít thở mùi khói, mùi lưu huỳnh, mùi hôi thối. Về vị giác, họ nếm những sự cay đắng. Ở đây sách Linh thao đưa ra ví dụ: sự buồn phiền, dòi bọ rúc rỉa lương tâm; vì thế sự cay đắng mà họ phải nếm hiểu là sự cay đắng trong tâm hồn nhưng được cụ thể hóa (miệng lưỡi nếm được). Về xúc giác, họ cảm thấy như mình đang bị nóng bỏng vì lửa đốt.

Người tĩnh tâm không dừng lại ở cái tưởng tượng nói trên về các khổ hình, nhưng họ dùng cái tưởng tượng đó làm điểm khởi trong việc suy gẫm về hỏa ngục để, phù hợp với ơn xin ở mào đầu hai, họ cảm nhận trong tâm hồn nỗi đau khổ mà các đọa nhân phải chịu (s. 65,4-5). Thiết tưởng tình trạng khốn nạn nhất, bất hạnh nhất và đáng sợ nhất mà những khổ hình mô tả trên gợi ra, là cái cảnh phát ra "những lời phạm thượng chống lại Ðức Kitô Chúa chúng ta và tất cả các thánh của Ngài" (s. 67), tức là cái cảnh chống lại Ðấng là Chúa, là Ðấng thánh, là Tình yêu mà mọi người đều phải tán dương (xem bài Nguyên lý và Nền tảng).

Khi nói đến những khổ hình giác quan, bài suy niệm kể ra lửa, khói, mùi thối tha, v.v., là những cái thuộc thế giới vật chất. Ðiều này có khả năng nhắc cho người tĩnh tâm về mối quan hệ của con người với các vật thụ tạo. Nếu ở bài Nguyên lý và Nền tảng, vạn vật được dựng nên cho con người, và nếu ở bài suy niệm hai về tội chúng vẫn giúp đỡ kẻ đang ở trong tội, thì bây giờ, tất cả như bỏ vai trò phục vụ để chống lại kẻ chịu án phạt đời đời, bởi tại họ vĩnh viễn chối bỏ Thiên Chúa và trở thành kẻ thù của Ngài, báng bổ Ngài.

Sau cùng, ở phần tâm sự, người tĩnh tâm nhớ đến sự kiện là có những kẻ đang phải chịu hình phạt đời đời: họ là những kẻ phạm tội trước khi Chúa giáng trần, những kẻ phạm tội trong khi Chúa sống ở thế gian, và những kẻ phạm tội sau khi Chúa lên trời. Tội được nêu ra ở đây là sự không tin Chúa đến trong thế gian, hoặc tin nhưng không sống theo những giới luật của Ngài. Ðã rõ chẳng ai biết gì về con số các kẻ phải sa hỏa ngục. Nhưng ở đây là cái nhìn khách quan của người tĩnh tâm căn cứ vào những tội mà nhiều người đã phạm công khai, để giúp cảm nghiệm tình thương của Ðức Kitô đối với mình: Ngài đã không bắt mình chịu tình trạng bi đát của ba hạng người vừa kể, mà còn để mình sống tới bây giờ. Vậy về nội dung, phần tâm sự rộng lớn hơn mào đầu hai, vì mào đầu hai thu hẹp vào việc tìm sự sợ hình phạt để lo tránh phạm tội. Phần tâm sự còn cho thấy việc suy niệm về hỏa ngục không nhằm giữ người tĩnh tâm lại trong tình trạng lo lắng sợ hãi, nhưng nhằm giúp họ tiến xa hơn nữa, là cảm thấy "lòng thương xót và nhân từ" của Ðức Kitô đối với họ. Và vì thế phần tâm sự kết thúc bằng việc tạ ơn Ngài.

Nên để ý đến hai chi tiết. Chi tiết thứ nhất: từ nhân từ xuất hiện ở cả hai bài tập hai và năm, nhưng chỉ bài tập năm này mới dùng thêm từ thương xót: "Ngài luôn luôn tỏ ra thương xót và nhân từ biết bao đối với tôi." Chi tiết thứ hai: phần tâm sự của bài tập hai nói đến lòng nhân từ của Thiên Chúa, đến việc Thiên Chúa còn ban cho sống tới hôm nay, đến việc tạ ơn Ngài; vậy phần tâm sự của bài tập năm cũng nói giống như vậy, chỉ thế Ðức Kitô cho Thiên Chúa: Ðức Kitô nhân từ, Ðức Kitô còn cho sống tới hôm nay, v.v.

Bài suy niệm một về tội đã nói đến tội của các ác thần và của rất nhiều người, và điều này hàm ý là trong các loài thụ tạo có tự do, kể cả những hữu thể là tinh thần thuần túy, tức các thần, đều có những phần tử đã phạm tội mà bỏ mất hạnh phúc vĩnh hằng. Vậy bài suy niệm về hỏa ngục nhắc cho người tĩnh tâm sự thật đáng sợ là điều đó có thể xảy đến cho họ. Về một khía cạnh nào đó, có thể nói rằng chính Thiên Chúa cũng không ngăn cản được người ta khỏi "sa hỏa ngục", tức lâm vào tình trạng vĩnh viễn ghét Ngài. Thực vậy, Ngài đã ban cho con người sự tự do, nên Ngài không thể mâu thuẫn với Ngài là dùng sức mạnh để bắt người ta yêu mến Ngài. Nói một tình yêu bị ép buộc bằng sức mạnh là nói một điều vô lý. Vậy hỏa ngục quả là một đe dọa có cơ sở! Vì thế thánh Phaolô đã khuyên: "Anh em hãy run sợ mà chăm lo phần rỗi linh hồn của anh em" (Pl 2,12), và ông nói rằng chính ông cũng lo sợ bị khai trừ (1 Cr 9,27). Có ý thức về sự yếu đuối và mong manh của con người mình để đừng tự phụ: "Kẻ tưởng mình đứng thì hãy coi chừng kẻo ngã" (10,12). Trong quá khứ chúng ta đã phạm tội; và chẳng có gì bảo đảm rằng trong tương lai chúng ta sẽ không phạm tội. Con người có thể trong một lúc vì nhát gan hay sợ khổ mà chối bỏ Thiên Chúa, có thể vì dục vọng nhất thời hay vì sức quyến rũ của thế gian mà phản bội Ngài, v.v. Vì thế phải thức và cầu nguyện (Mt 26,41).

Bài suy niệm về hỏa ngục liên kết chặt chẽ với bốn bài suy niệm trước đó về tội, vì mục đích của nó, như đã thấy ở mào đầu hai, là nhằm giúp người tĩnh tâm tránh tội bằng cách đưa ra lý do bổ túc: nếu vì quên mất tình yêu của Chúa vĩnh cửu, thì ít ra vì sợ khổ hình mà không dám phạm tội. Lại nữa, nếu bài tập một đã nhắc đến hỏa ngục dành cho các ác thần và các kẻ đã chết trong tội, thì bài tập năm về hỏa ngục giúp người tĩnh tâm hiểu sâu sắc và cảm thấm thía hơn thế nào là hỏa ngục để nhờ đó, về một phương diện, họ hiểu và cảm thêm tính cách trầm trọng, tà ác và xấu xa của tội đồng thời nhận rõ hơn lượng từ bi nhân thứ của Ðức Kitô là Ðấng, cho tới bây giờ, vẫn để họ sống, nghĩa là vẫn còn ban cho họ thời gian sửa mình.

Bài suy niệm về hỏa ngục nằm trong cùng một chuyển động của việc suy gẫm về tội. Ở các bài về tội, người tĩnh tâm nhìn vào hiện trạng của mình là hiện trạng của kẻ đang mang nhiều tội và do đó đáng phải chịu phạt nhưng vẫn còn được hưởng lòng khoan dung nhân từ không bờ bến của Thiên Chúa. Vậy, với bài suy niệm về hỏa ngục, họ nhìn về tương lai và nhận ra cái nguy hiểm kinh khủng này, là nếu họ cứ tiếp tục sống trong tội thì cái hiện trạng kia tới một lúc nào đó sẽ nhường chỗ cho một tình trạng bi đát, hậu quả dĩ nhiên của sự không thống hối; và đó là tình trạng của kẻ chịu hình phạt hỏa ngục.

Khác với Tuần Hai và Ba ở đó các đề tài chiêm niệm được ghi rõ dành cho ngày thứ mấy của Tuần (các bài chiêm niệm của Tuần Bốn thì không), Tuần Nhất chỉ giới thiệu tất cả năm bài suy niệm, và không nói gì đến ngày hay những ngày dành cho các bài đó. Ở các Tuần khác, chúng ta thấy bài lặp lại là bài làm tiếp theo bài suy ngắm trước đó trong ngày; vì thế dựa vào sự kiện này, chúng ta bảo là nếu không tất cả năm thì ít ra bốn bài tập đầu của Tuần Nhất, được làm trong cùng một ngày. Bản chỉ đạo năm 1599 cũng hiểu như thế, và nói thêm rằng nếu không làm bài suy niệm về hỏa ngục là bài tập năm trong cùng một ngày với bốn bài đầu, thì chuyển nó sang ngày hôm sau là ngày thứ hai. Cũng theo bản chỉ đạo, ở ngày thứ hai có thể thêm những bài suy niệm về sự chết, sự phán xét kèm theo những bài lặp lại; sang ngày thứ ba, trình bày cũng vấn đề đó nhưng với một ít điều mới. Linh mục Vitoria có ghi lại như sau lời thánh I-nhã trả lời cho linh mục về phương pháp cho Linh thao liên quan đến Tuần Nhất: nếu mỗi ngày chỉ giới thiệu một bài tập, thì có thể chia nhỏ bài tập này ra để mỗi giờ chỉ suy gẫm về một hay trên một điểm, rồi thêm một hay hai lần lặp lại toàn bài.

4. Những bài tập phụ thêm

Sách Linh thao trong bản Phổ thông (và bản P2) có thêm câu này, dĩ nhiên với sự đồng ý của thánh I-nhã: "Nếu người cho các bài tập thấy rằng thêm những bài suy niệm khác, như về sự chết và về các hình phạt khác của tội, về sự phán xét, v.v., là hữu ích cho những người tập, thì họ đừng nghĩ là họ bị cấm, mặc dù ở đây không ghi thêm những bài đó." Nên để ý rằng đây là những bài tập tiếp thêm vào số năm bài tập đã nói tới trên kia, chứ không phải là những bài xen kẽ vào giữa năm bài tập đó, bởi lẽ, như đã nói rõ, năm bài tập đó gắn bó chặt chẽ với nhau để làm thành một tổng thể thống nhất. Không nên sợ rằng đặt bài suy niệm về sự chết hay về sự phán xét sau bài suy niệm về hỏa ngục, là không tôn trọng thứ tự trước sau theo đó sự chết và sự phán xét phải xảy ra trước án phạt hỏa ngục. Có sự đảo lộn thứ tự thời gian, nhưng, xét về một phương diện thì không có sự đảo lộn này, vì bài suy niệm về hỏa ngục, tuy nhan đề là như thế, không chỉ có ý suy về tình trạng bất hạnh của kẻ chết khi có tội trọng, mà còn, như phần tâm sự của bài đó cho biết, giúp người tĩnh tâm nhận thức sự kiện mình chưa chết, và do đó, cho tới giờ phút này, họ không phải sa hỏa ngục, nghĩa là vẫn đang được hưởng lòng thương xót và nhân từ của Ðức Kitô để có thời gian sửa mình.

Riêng về việc suy gẫm về sự chết và về sự phán xét, cả hai còn thích hợp với điều bổ di sáu khuyên người tĩnh tâm, trong Tuần Nhất, nên nhớ hơn đến hai điều đó (s. 78,2). Vậy nên nói thêm rằng, xét về mục đích, những bài suy niệm về các khổ hình do tội gây ra và về sự phán xét, là sự nối dài bài suy niệm về hỏa ngục, còn bài suy niệm về sự chết, để phù hợp với hướng đi của Tuần này, nên tập trung vào việc nhấn mạnh và bổ sung ý tưởng trong lời cầu xin thuộc phần tâm sự của bài tập ba: biết rõ thế gian để chán ghét nó và do đó gạt bỏ những quyến rũ của nó; nhấn mạnh và bổ sung ý tưởng trong phần tâm sự của bài tập hai: coi sự kiện được sống tới bây giờ là một ân huệ Chúa ban cho để còn có thời gian trở về với Ngài. Nói ngắn hơn, hai ý tưởng nên được nhấn mạnh: không ham thích thế gian và luôn tỉnh thức. Vì thế ơn xin trong bài suy niệm về sự chết sẽ là xin đừng ham thích thế gian để khỏi dễ buông mình xuống cái dốc dẫn đến vực thẳm của tội; hoặc xin được luôn luôn tỉnh thức là giữ linh hồn trong trắng để sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ lúc nào. Dưới đây xin giới thiệu hai điểm suy gẫm về sự chết phù hợp với hai điều vừa nói trên, và thêm một điểm suy gẫm ba phù hợp với tinh thần của khóa Linh thao nói chung.

Suy gẫm về sự chết

Ðiểm một: không ham thích thế gian. - Khi chết là trút bỏ mọi sự: "Vâng, lo lắng vất vả ví như một làn gió thoảng qua. Họ tích lũy và không biết ai sẽ hưởng dùng" (Tv 38). Mọi sự thế gian đều mau qua và tạm bợ: tiền của, danh giá, địa vị, lạc thú, v.v., vì thế chúng không những không làm thỏa mãn nơi tôi niềm ước vọng cái tuyệt đối và vĩnh cửu mà còn dễ ngăn cản sự thể hiện ước vọng này. Ý tưởng này sẽ củng cố thái độ dửng dưng đã được nhấn mạnh ở bài Nguyên lý và Nền tảng, sẽ thúc giục tôi phải sống siêu thoát đối với các thực tại trần gian. Không những không ham chuộng chúng, tôi còn xa tránh, khi có thể, những cái phù vân, như bài suy niệm hai về tội đã nhắc nhở (s. 63,4), vì chúng thường là những dịp hay những cớ cho tôi phạm tội.

"Chúa hãy xem, chuỗi ngày Chúa ban cho con chỉ bằng một gang tay" (Tv 38,6). Những sự trần gian đều qua mau, chính đời sống tôi cũng trôi nhanh như bông hoa sớm nở tối tàn: "Những ngày sống của con người ví như ngọn cỏ; con người như bông hoa nở ra nơi đồng nội: một cơn gió thoảng qua, nó không còn nữa" (Tv 102, 15-16). Vậy tôi dùng đời sống ngắn ngủi để đi tìm cái làm nên giá trị vĩnh cửu cho con người tôi trong kiếp sau. Chỉ có một việc làm mang giá trị vĩnh cửu, là tôn vinh và phụng sự Thiên Chúa, mà công việc này, tự bản chất nó, nó loại trừ sự phạm tội.

Cứ mỗi ngày mỗi qua đi là cuộc đời tôi được thêm một ngày nhưng đồng thời thời gian còn dành cho cuộc đời tôi lại rút vắn đi một ngày: cái chết đến gần thêm một bước. Ðiều tôi phải nghĩ tới là tự kiểm xem tôi đã tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa như thế nào, cũng nghĩa là tôi đã sống như thế nào cho cùng đích đời tôi. Thông thường mà nói, sống làm sao thì chết như vậy, nghĩa là sống thánh thì chết thánh, và ngược lại. Vì thế điều quan trọng không phải là sống bao lâu trên trần gian này - bài Nguyên lý và Nền tảng cũng đã bảo hãy dửng dưng đối với vấn đề chọn sống lâu hay chết trẻ - mà là, trong cuộc đời, tôi biết chọn đi đúng con đường dẫn tới cùng đích của tôi.

Thân xác tôi rồi sẽ trở thành nắm tro hoặc sẽ tan biến đi trong lòng đất. Ðiều này không đáng khiến tôi bận tâm; mối bận tâm của tôi phải là, qua cái chết, tôi đạt tới cùng đích, tức được đến gặp Thiên Chúa để vĩnh viễn tán dương, cảm tạ và yêu mến Ngài, để sống hoan lạc trong sự hiệp nhất với Ngài. Ðó cũng chính là sự rỗi linh hồn, điều mà không ai có thể tìm thay cho tôi.

Ðiểm hai: tỉnh thức. - Việc suy gẫm về sự chết giúp tôi nhớ kỹ điều này: chết là giây phút cuối cùng mà vận mệnh tôi được định đoạt, tức được là được tất cả, mất là mất tất cả, và một cách vĩnh viễn, nghĩa là chỉ có hoặc đạt được cùng đích cuộc đời, hoặc bỏ mất nó. Ý tuởng này hàm ẩn trong phần tâm sự của bài tập hai về tội (s. 61) và của bài tập năm về hỏa ngục (s. 71, 3-4): người tĩnh tâm cảm tạ Chúa còn cho mình sống tới hôm nay. Chúa còn cho tôi sống tới hôm nay, điều này có nghĩa là Chúa muốn cho tôi ngay hôm nay hãy lo sống theo đúng những đòi hỏi của cùng đích cuộc đời tôi, chứ không đợi đến lúc chết. Vả lại cái chết có thể xảy đến cho tôi bất cứ lúc nào, ngay cả lúc bất ngờ nhất. Chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: "Anh em hãy thức, vì anh em không biết Chúa của anh em sẽ đến vào ngày nào" (Mt 24,42), và: "Anh em hãy sẵn sàng vì, vào giờ nào anh em không biết, Con loài người sẽ đến" (24,44). Vậy kẻ nào không thức, không sẵn sàng, thì sợ rằng họ có thể hụt mất cùng đích đời người mà không bao giờ tìm lại được nữa; họ có thể sẽ bị cửa nhà đóng lại trước mặt để không được vào dự tiệc cưới (Mt 25,10-12).

Ðiểm ba: vô danh, bỏ mình, dâng hiến. - Ðây là vài ý tưởng phù hợp với tinh thần của khóa Linh thao. Trong khóa Linh thao, người tĩnh tâm suy gẫm về sự khiêm tốn, về sự không ham chuộng xác thịt; và họ quyết tâm dâng hiến trọn con người mình cho Chúa. Vậy, về sự khiêm tốn, con người khiêm tốn sẵn sàng và tìm cách xóa mình đi trong xã hội để trở thành vô danh: không những họ không muốn mà còn cả tránh tìm cách cho người ta biết đến mình và ca tụng mình. Trong chiều hướng này, họ sẵn lòng chết, sẵn lòng để cho thân xác mình ra vùi nơi nghĩa địa hoang vắng, sẵn lòng để cho nó tan nát trong lòng đất hoặc trở thành nắm tro cất ở một nơi nào đó. Như thế là họ sẵn lòng để cho những người khác vĩnh viễn không biết đến hoặc quên lãng họ đi.

Ðối với bản thân họ, vui nhận cái chết là một khía cạnh của sự từ bỏ mình, sự không quyến luyến thân xác, vì là chấp nhận việc nó trở về với đất bụi. Trong liên hệ với Thiên Chúa, vui nhận cái chết là bằng chứng việc họ thực sự dâng hiến mình cho Ngài để họ hoàn toàn thuộc về Ngài, Ngài sử dụng họ như thế nào là tùy ở Ngài. Giờ chết là giờ Ngài bảo họ hãy bỏ lại thân xác hữu hình để tới gặp Ngài. Họ tán dương, tôn kính và phụng sự Ngài bằng cái chết của họ. Nếu cuộc đời trần thế xưa của Chúa Giêsu hướng đến cái chết Hy tế trên Thánh giá, thì cuộc đời của họ, kẻ đi theo Ngài, cũng hướng đến cái chết của mình xét như là một tế phẩm chung cục và quan trọng nhất tham dự vào cái chết Hy tế của Ngài để dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi.

Tâm sự. - Theo tinh thần của phần tâm sự của bài tập hai về tội, tôi cảm tạ Thiên Chúa cho tôi sống tới hôm nay và cho tôi giờ phút này để suy gẫm về sự chết, nhằm chuẩn bị sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa mà ra đi vĩnh viễn là bước vào đời sau.

Tôi xin Ðức Maria giúp tôi sửa mình và nên thánh; và, như xưa ngài đã có mặt bên cạnh con mình là Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá, thì xin ngài cũng đến bên cạnh tôi - cũng là con cái ngài - trong giờ lâm chung, để giúp tôi được chết trong bình an của Ðức Giêsu Kitô mà vào trong vương quốc vĩnh cửu trên trời của Ðấng phục sinh vinh hiển, nơi mà các thần thánh đang đón chờ tôi.

Sau khi đã hoàn tất cuộc đời sống cho Chúa Cứu thế, thánh Giuse đã tắt thở trong tay dưỡng tử Giêsu và hiền thê Maria. Cái chết đẹp đẽ biết bao! Tôi xin thánh Giuse là "quan thầy chết lành", giúp đỡ tôi trong giờ phút sau hết để tôi được chết lành, chết thánh, chết trong sự tôn kính và yêu mến Thiên Chúa và để, qua cái chết này, tôi bước vào đời sau, ở đó tôi sẽ tiếp tục tán dương Thiên Chúa, tôi sẽ tán dương mãi mãi và cách trọn vẹn.

5. Mục đích của Tuần Nhất

Như đã rõ, những ơn xin được nêu ra ở mào đầu hai và ở phần tâm sự của các bài tập trên đây là những cái thuộc về mục đích mà người tĩnh tâm đi tìm trong Tuần Nhất này. Vậy những ơn xin đó là sự hổ thẹn vì bản thân, sự chán ghét các tội đã phạm, sự ăn năn thống hối - sự ăn năn thống hối bao hàm quyết tâm sửa mình. Vì thế theo sách Linh thao, Tuần này tương ứng với đời sống tẩy luyện, tức con đường tẩy luyện hoặc thanh đạo (s. 10,3), một thuật ngữ chỉ một trong ba chặng đường kế tiếp nhau trong đời sống thiêng liêng là thanh đạo, minh đạo và hiệp đạo, theo quan niệm truyền thống đã có từ thế kỷ thứ năm (do Pseudo-Denys nêu ra). Phù hợp với hướng đi của thanh đạo, sách Linh thao khuyên người tĩnh tâm xưng tội chung liền sau khi làm xong các bài tập của Tuần Nhất (s. 44,9), tuy mục đích của Tuần này không phải chủ yếu là giúp họ chuẩn bị công việc xưng tội.


Back to Vietnamese Missionaries in Taiwan Home Page