Bài khai mạc khoá Linh Thao là bài mang nhan đề Nguyên lý và nền tảng. Chắc chắn nó không phải là bài suy ngắm, vì bài suy ngắm đầu tiên của khoá Linh Thao là bài suy ngắm về tội, như đầu đề của nó nói rõ: "Bài tập thứ nhất là một bài suy gẫm dùng đến ba tài năng..." (s. 45,1); và chỉ ở trong bài Nguyên lý và Nền tảng đưọc coi như là một bài suy tư. Người tĩnh tâm sẽ nghiền ngẫm nó trước mặt Thiên Chúa trong bầu không khí cầu nguyện. Tuy nhiên trong thực tế nó quen đựơc dùng như một bài suy gẫm. Linh mục De Vitoria, trong bản ghi lại những ý kiến của thánh I-Nhã, chia bài Nguyên lý và nền tảng thành ba phần: cùng đích của con người do Thiên Chúa dựng nên; những phương thế; sự khó khăn trong việc lựa chọn cái thích hợp hơn, và sự thiệt hại do lựa chọn không đúng, và do đó phải có sự thăng bằng không nghiêng lệch trong khi lựa chọn. Bản chỉ đạo năm 1599 đại cương cũng ghi lại như thế.
Bài Nguyên lý và Nền tảng là bài thuộc về khóa Linh Thao, nằm trong khoá Linh Thao. Trong bản Thủ Bút, nó được đặt vào Tuần Nhất, sau nhan đề "Tuần Nhất", sau nhan đề "Những bài tập thiêng liêng để thắng mình..." và sau mấy dòng tiếp vào nhan đề này. Ðàng khác, tiếp liền vào bài Nguyên lý và nền tảng là mục nói về việc xét mình riêng và xét mình chung. Vậy nếu hai việc xét mình này thuộc về khoá Linh Thao, thì không có lý do gì khiến bài Nguyên lý và nền tảng không được coi như thế. Trong bản ghi lại những lời của thánh I-Nhã mang nhan đề: "Giêsu trong việc cho các bài tập, người ta phải tiến hành như thế nào khi chúng được cho toàn bộ", ngay ở dòng đầu tiên, linh mục Polanco viết: "Về thứ tự phải theo, người ta hãy giới thiệu trước hết bài Nguyên lý." Chỉ có thể nói rằng bài Nguyên lý và Nền tảng là bài chuẩn bị cho việc bước vào các bài tập của các Tuần Linh Thao. Chú dẫn mười chín trong sách Linh Thao còn nói rõ rằng đối với những người bận bịu công việc nhưng có học vấn và thông minh, và có thể dành mỗi ngày một giờ rưỡi cho việc Linh Thao, thì hãy trình bày cho họ bài Nguyên lý và nền tảng, bảo họ làm việc xét mình riêng và xét mình chung, v.v... (s. 19,2-3).
Chính nhan đề Nguyên lý và Nền tảng cũng gợi ý về tầm quan trọng to lớn của nó đối với cuộc Linh Thao. Thực vậy, nội dung của nó là nguyên lý và nền tảng cho cơ cấu Linh Thao cũng như cho tiến trình tu thân: không những nó khai mạc khoá Linh Thao mà còn định hướng tổng quát cho cuộc Linh Thao, bằng cách nêu ra cứu cánh đời người và thái độ căn bản phải có đối với các vật thụ tạo trong việc theo đuổi cứu cánh đó. Tuy mỗi Tuần của khoá Linh Thao có mục đích riêng của nó, nhưng tất cả các Tuần đều xác định và cụ thể hóa hơn việc theo đuổi cứu cánh đó đồng thời giới thiệu cách thức theo đuổi nó. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu dưới đây bài Nguyên lý và nền tảng.
Qua câu "con người được dựng nên", con người được nhắc bảo rằng mình là loài thụ tạo, tức một hữu thể không phải tự mình mà có, nhưng phải do một quyền lực siêu phàm làm ra. Con ngưòi nói ở đây hiểu là mọi người và hết mọi người: mỗi người và mọi người đều là con người và đều được dựng nên. Dĩ nhiên khi nói "được dựng nên" là hàm ý phải có Ðấng Tạo Hoá. Câu đầu trong sách Sáng Thế đã nói: "Khi Thiên Chúa bắt đầu tạo thành trời và đất" (St 1,1), và câu hai mươi mốt: "Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài."
Bản văn không minh nhiên nói đến Ðấng Tạo Hóa, và nói trực tiếp rằng con người được dựng nên. Sự kiện không nhắc đến Ðấng Tạo Hóa xem ra hàm ý rằng ở đây không phải là chỗ và lúc bài Nguyên lý và Nền tảng muốn người tĩnh tâm suy gẫm về Ðấng tạo Hoá, ví dụ về quyền năng, về tình thương, v.v... của Ngài trong việc dựng nên con người. Thực vậy, sau khi nói đến việc con ngưòi được dựng nên, bản văn viết tiếp: "Ðể tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa Chúa chúng ta." Với từ để trong câu này, bản văn đi thẳng đến cứu cánh đời người. Câu "con người được dựng nên để..." còn là cách diễn đạt lấy con người làm điểm hoặc vị trí xuất phát để, từ bản thân, con người nghĩ đến mối quan hệ của mình đối với Thiên Chúa và, như sẽ thấy, nghĩ đến mối quan hệ giữa mình và các vật thụ tạo. Vậy ở đây con người phóng cái nhìn lên siêu việt, nhìn thẳng vào Ðấng là Thiên Chúa và nhận thấy rằng tán dương, tôn kính và phụng sự Ngài là ba việc làm thuộc mối quan hệ của con người với Thiên Chúa. Cũng cách diễn đạt trên còn cho phép chúng ta nghĩ rằng ba công việc này là nằm trong bản tính của mối quan hệ đó. Ngoài ra cách diễn đạt trên không ngăn cản mà có lẽ còn phù hợp với cái cảm tưởng rằng nơi con người có ước vọng tự nhiên, tức ước vọng thuộc bản tính của con người xét như một hữu thể thụ tạo hữu hạn và có lý tính, ước vọng tìm về nguồn gốc của mình là Hữu thể tự hữu và tuyệt đối, tức Thiên Chúa tối cao. Ba việc tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa là những biểu hiện của ước vọng đó; tìm sự rỗi linh hồn là một biểu hiện khác nữa của ước vọng tự nhiên muốn đạt tới Thiên Chúa.
Còn một chi tiết, là bản văn dùng cụm từ Thiên Chúa Chúa chúng ta thay vì Ðấng Tạo Hóa: "Tán dương , tôn kính và phụng sự Thiên Chúa Chúa chúng ta." Ðiều này cho phép chúng ta nghĩ rằng bản văn không có ý nói đến quan hệ của con người xét như là hữu thể thụ tạo với Ðấng xét như là Tạo Hóa, cho bằng nói đến quan hệ của hữu thể thụ tạo xét như là con người với Ðấng xét như là "Thiên Chúa Chúa chúng ta". Chúng ta hãy phân biệt cách sơ lược ba ý niệm Ðấng tạo Hóa, Chúa và Thiên Chúa.
Về ý niệm Ðấng Tạo Hóa thì, nhìn về phía Thiên Chúa, ý niệm này chỉ quyền năng của Ngài khiến cho vạn vật xuất hiện từ hư vô và giữ cho chúng tồn tại; nhìn về phía vật thụ tạo, ý niệm đó chỉ sự lệ thuộc tuyệt đối của nó vào Ngài. Ở đây chúng ta không nói đến lý do và mục đích của việc tạo thành. Về từ Chúa (tiếng Hy-lạp là Kyrios; tiếng Hán Việt là Chủ), từ này có nghĩa là người làm chủ; trong cổ Hy-lạp và ở các xứ Sêmitea, nó còn dùng để chỉ ông vua. Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đưọc gọi là Chúa (chủ) của dân Israel (x. Xh 19,4-6; Is 43,1), là Chúa cai quản các dân tộc (x. Mk 4,3) và vinh quang Ngài bao trùm địa cầu (x. Is 6,3). Vậy từ Chúa chỉ ý niệm quyền tối thượng của Thiên Chúa, quyền làm chủ của Thiên Chúa đối với mọi hữu thể thụ tạo. Nhân tiện, xin thêm: nhiều chỗ trong sách Linh Thao gọi Ðức Kitô là Chúa. Vậy, vì Ðức Kitô cũng là Thiên Chúa, nên chắc chắn từ Chúa áp dụng cho Ngài phải hiểu theo nghĩa vừa nói. Về từ Thiên Chúa (từ Hán Việt: Thiên Chủ), từ này dùng để dịch từ Hy-lạp Theos và từ Latinh Deus. Ðiều không chối cãi là mỗi người công giáo có những nét nhấn mạnh hay nổi bật riêng trong quan niệm và cách riêng trong hình ảnh về Thiên Chúa, nhưng chắc chắn là mọi ngưòi công giáo đều tin thờ một Thiên Chúa, và quan niệm về Thiên Chúa thì vẫn được trình bày trong giáo lý công giáo, căn cứ vào Thánh Kinh. Vì thế sách Linh Thao không thể nào hiểu về Thiên Chúa trong công giáo bao hàm những ưu phẩm thần linh chủ yếu: Ngài là một hữu thể hữu ngã, là Ðấng duy nhất, hiện diện khắp mọi nơi, vô hình hoặc thiêng liêng, hằng hữu, cực thánh; Ngài là Cha, là tình yêu, gồm Ba Ngôi. Theo sách Sáng Thế, chính Thiên Chúa đã sáng tạo trời đất (x. St 1,1), và Ngài đã thực hiện công cuộc này bằng Lời sáng tạo của Ngài: "Thiên Chúa phán: hãy có ánh sáng. Và đã có ánh sáng" (1,3). Tiên tri Isaia nói: "Thiên Chúa đã làm nên trái đất, Ngài đã làm cho nó trở nên rắn chắc, Ngài đã không dựng nên nó rỗng không" (Is 45,18), v.v... Chúng ta vẫn tuyên xưng: "Tôi tin có một Thiên Chúa, Ngài là Cha toàn năng, là Ðấng tạo hoá của trời và đất."
Sự phân biệt sơ lược giữa ba ý niệm Ðấng Tạo Hóa, Chúa và Thiên Chúa, cho thấy ba ý niệm không loại trừ nhau, nhưng mỗi ý niệm có những nét nhấn mạnh riêng, hoặc ý niệm này rộng hơn ý niệm nọ. Cũng dựa vào sự phân biệt trên, chúng ta thấy cụm từ Thiên Chúa Chúa chúng ta là cụm từ mang nội dung rộng lớn hơn cả. Vậy khi người ta tĩnh tâm bắt đầu bước vào khóa Linh Thao, Ðấng mà họ nghĩ đến trước hết là Thiên Chúa Chúa chúng ta, Ðấng mà tất cả cuộc đời của họ quy hướng về. Trong sách Linh Thao, cụm từ Thiên Chúa Chúa chúng ta xuất hiện đầu tiên (s. 3,2), sau đó mới lần lượt đến cụm từ Ðức Kitô Chúa chúng ta (s. 4,2-3); Ðấng Tạo Hóa và Chúa (s. 5,1); Ðấng Tạo Hóa (s. 15,6). Chúng ta nói rõ hơn về những trưòng hợp sử dụng những danh xưng này.
Cụm từ này được dùng tất cả 58 lần (trong bản Thủ bút) trong hai loại trường hợp dưới đây:
Về những việc Thiên Chúa thực hiện trong quan hệ với con người.
Ngài ban ơn, ban sự
yên ủi (s. 135,6; 322,3; 330,1; 336,1)
Ngài biết bản tính con người
(s. 89,5).
Ngài nhìn xem con người (s. 75,2).
Ngài làm mọi sự cho con người
và ban cho con người cái Ngài
có (s. 234,2).
Ngài đặt cái gì đó nơi
ý muốn của con người (s. 155,2).
Những dự trù và ý kiến
không phải do Ngài trực tiếp ban
cho (s. 336,1).
Ngài đánh động và lôi
cuốn ý muốn của con người
(s. 175,2).
Ngài chọn vị vua thế tục (s. 92).
Ngài ở trong mọi vật thụ tạo
(s. 39,6).
Về những hành động của con người trong quan hệ với Thiên Chúa.
Tán dương Ngài, làm
cho Ngài được vinh quang (s. 6,3; 20,6;
23,2; 169,2.7; 177,1; 179,1.3; 181,1; 185,1; 189,5.9; 383,2; 339,2; 351).
Tôn kính Ngài (s. 23,2; 92).
Kính sợ Ngài (370,3).
Phụng sự Ngài (s. 9,2; 20,6; 23,2; 155,3.4; 166,2;
169,4.7; 315,1; 363,1; 370).
Yêu mến Ngài (s. 363,1).
Tạ ơn Ngài (s. 92; 165,1).
Cầu xin Ngài, xin ơn tha thứ (s. 16,4;
25,1; 43,6; 46; 48,1; 180,1; 240,1).
Ở trước mặt Ngài (s. 151;
232).
Cầu nguyện trước mặt Ngài
và dâng điều đã lựa
chọn (s. 183,1; 188).
Thưa gởi Ngài, tâm sự với
Ngài (s. 3,2; 61; 243,2).
Tìm thấy Ngài (s. 150,2; 153).
Ðọc tên Ngài (s. 39,4).
Ước ao có các kết quả
làm hài lòng Ngài (s. 174,2).
Làm việc bố thí vì tình yêu
(s. 383,2).
Phân phát những của cải của
Ngài (s. 343,1).
Thêm một lần dùng cụm từ Thiên Chúa và Chúa chúng ta: được Ngài kêu gọi dành cho chức vụ (s. 343,1).
Cụm từ này được dùng 16 lần và chia làm hai loại trường hợp sử dụng. Loại trường hợp thứ nhất gồm hai lần, liên quan đến việc Thiên Chúa được nhìn trong tương quan với vật thụ tạo:
- "Ðấng Tạo Hóa
và Chúa tự thông truyền cho linh
hồn" (s. 15,3).
- "Ðể Ðấng Tạo Hóa và
Chúa hành động chắc chắn hơn
nơi vật thụ tạo của Ngài" (s.
16,1).
Loại trường hợp thứ hai gồm 14 lần, liên quan đến việc vật thụ tạo được nhìn trong tương quan với Thiên Chúa. Ðây là một câu rõ nhất làm ví dụ: "Hãy để cho Ðấng tạo Hóa hành động trực tiếp với vật thụ tạo và vật thụ tạo với Ðấng Tạo Hóa và Chúa" (s. 15,6). Ở đây vế trước của câu nhìn theo hướng tương quan của Thiên Chúa với vật thụ tạo và dùng suông từ Ðấng Tạo Hóa; vế sau dùng cụm từ Ðấng Tạo Hóa và Chúa. Không kể câu vừa trích dẫn, còn những câu khác như sau.
- "Ði vào những
bài tập đó với lòng
quảng đại và với sự
hào hiệp đối với Ðấng
Tạo Hóa và Chúa của mình"
(s. 5,1).
- "Ðến gần và đạt tới
Ðấng Tạo Hóa và Chúa của
mình" (s. 20,9).
- "Tôi hiểu sự cung kính là
khi, trong lúc kêu tên Ðấng Tạo
Hóa và Chúa của mình, người
ta suy xét, bày tỏ sự trọng vọng
và tôn kính phải có đó"
(s. 38,4).
- "Khi dựa vào vật thụ tạo mà
thề thì họ có khả năng hơn
và sẵn sàng hơn những người
bất toàn để tỏ lòng trung
thuận và sự tôn kính với
Ðấng Tạo Hóa và chúa của
mình" (s. 39,7).
- "Tôn kính và phục tùng Ðấng
Tạo Hóa và Chúa của mình"
(s. 39,7).
- "Nhớ đến sự trầm
trọng và tà ác của tội phạm
đến Ðấng Tạo Hóa và
Chúa của mình" (s. 52,2).
- "Sự yêu mến nhiều hay ít
mà họ có đối với điều
họ chọn, chỉ là vì Ðấng
Tạo Hóa của họ mà thôi"
(s. 184,3).
- "Linh hồn bốc cháy trong tình yêu
mến Ðấng Tạo Hóa và Chúa
của mình (s.316,1).
- "Làm cho linh hồn được an
tĩnh và bằng yên trong Ðấng
Tạo Hóa và Chúa của mình"
(s. 316,4).
- "Thấy mình rất lười biếng,
nguội lạnh, buồn bã và như bị
chia lìa khỏi Ðấng Tạo Hóa và
Chúa của mình" (s. 317,3).
- "Bằng cách lấy sức nơi
Ðấng Tạo Hóa và Chúa của
mình" (s. 324,2).
- "Khi ấy nó phải nâng trí lên
Ðấng Tạo Hóa và Chúa của
mình" (s. 351,2).
Có thể thêm câu: "Việc muốn kêu tên vật thụ tạo không làm chúng ta chú ý và thận trọng để nói sự thật hay để khẳng định nó theo sự cần thiết, cho bằng việc muốn kêu tên của Chúa và Ðấng Tạo Hóa của mọi vật" (39,3). Trong câu này có sự đảo thứ tự: "Chúa và Ðấng Tạo Hóa" thay vì "Ðấng Tạo Hóa và Chúa". Nhưng sự đảo ngược này là chi tiết không đáng kể, vì cách đó chứng vài chục chữ, bản văn dùng lại thứ tự cũ: "Kêu tên chính Ðấng Tạo Hóa và Chúa."
Một lần trong sách Linh Thao, từ Ðấng Tạo Hóa liên kết với từ Ðấng Cứu Chuộc để, theo tôi nghĩ, áp dụng cho Ðức Kitô: "Vui mừng trong Ðấng Tạo Hóa và Cứu Chuộc của mình" (s. 229,4). Ðiều này không liên quan gì đến vấn đề đang bàn ở đây.
Tất cả có chín lần từ Ðấng Tạo Hóa được dùng độc lập, nghĩa là không phối hiệp với từ Chúa hay từ (Ðấng) Cứu Chuộc. Trong số chín lần này, tám lần ý niệm Ðấng Tạo Hóa và vật thụ tạo được đặt đối diện nhau, như thấy dưới đây.
- "Hãy để cho Ðấng
Tạo Hóa hành động trực tiếp
với vật thụ tạo" (s. 15,6).
- "Không dựa vào Ðấng Tạo
Hóa hay vật thụ tạo mà thề, trừ
phi là thề theo đúng sự thật,
vì cần thiết và với niềm
tôn kính" (s. 38,1).
- "Phải chú ý: mặc dù trong lời
thề nông nổi chúng ta phạm tội
[nặng] hơn do dựa vào Ðấng
Tạo Hóa mà thề thay vì dựa
vào vật thụ tạo..." (39,1).
- "Tuy nhiên thề cho phải phép, theo
sự thật, vì và với niềm
tôn kính mà dựa vào vật
thụ tạo, thì khó hơn dựa vào
Ðấng Tạo Hóa" (39,2).
- "Khi dựa vào vật thụ tạo mà
thề thì không dễ giữ sự
tôn kính và lòng trung thuận đối
với Ðấng Tạo Hóa bằng
khi thề..." (s.39,4).
- "Làm sao Ngài là Ðấng Tạo
Hóa mà đã đến làm
người" (s. 53,1), tức Ngài
trở thành vật thụ tạo.
- "Chỉ yêu trong Ðấng Tạo Hóa
của mọi vật" (s. 316,2).
- "Ðiều thuộc riêng Ðấng
Tạo Hóa là việc Ngài vào, ra,
gây sự chuyển động nơi linh
hồn" (s.330,1).
Chỉ có một lần từ Ðấng Tạo Hóa đứng một mình để chỉ hướng tương quan của vật thụ tạo với Thiên Chúa. Ðó là câu: "Phụng sự Ðấng Tạo Hóa của họ" (s. 20,7); và như vậy, không kể trường hợp này, không chỗ nào sách Linh Thao nói tán dương hoặc tôn kính, phụng sự, tôn thờ Ðấng Tạo Hóa.
Chúng ta trở lại bài Nguyên lý và Nền tảng. Bài suy tư này mở đầu bằng từ "con người" dùng cách rất trống, không chỉ đích xác ai. Nhưng sau đó lại nói đến chúng ta trong cụm từ Thiên Chúa Chúa chúng ta. Vậy việc dùng từ chúng ta này cho phép chúng ta nghĩ rằng mọi người đều được dựng nên, và mọi người làm thành một tập thể là chúng ta trước mặt Thiên Chúa, mọi người liên kết với nhau trong ba công việc hoặc ba nhiệm vụ chính làm nên cứu cánh cuộc đời: tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa. Chúng ta lần lượt tìm hiểu ba công việc này.
Tán dương Thiên Chúa cốt ở nhìn nhận giá trị vô song của các ưu phẩm nơi Ngài: quyền năng, thánh thiện, khôn ngoan, công chính, tốt lành, nhân hậu, v.v...; mà không phải nhìn nhận suông một cách lạnh lùng khách quan, nhưng là nhìn nhận với tâm tình cảm phục, yêu mến và biết ơn của một hữu thể thụ tạo có lý trí trong tương quan với Ðấng là "Thiên Chúa Chúa chúng ta". Chúng ta tán dương Thiên Chúa vì Ngài là Thiên Chúa; chúng ta tán dương Ngài về những kỳ công của Ngài, về những ân huệ Ngài ban cho chúng ta. Tác giả các thánh vịnh nói: "Hát mừng Thiên Chúa chúng ta là điều tốt lành biết bao! Chúc tụng Ngài là điều êm ái dường nào" (Tv 146,1); tác giả thư gửi các tín hữu Dothái khuyên: "Nhờ Người (Chúa Giêsu), chúng ta hãy không ngừng dâng lên Thiên Chúa hy lễ tán dương, tức hoa trái của môi miệng xưng tụng Danh thánh" (Dt 13,15). Các mục tử xưa, sau khi đến gặp Chúa Hài Nhi mới giáng sinh, đã trở về và "hát mừng tán dương Thiên Chúa" (Lc 2,20). Người bất toại nọ được Chúa Giêsu chữa lành, đã vác chõng về nhà, vừa đi vừa tán dương Thiên Chúa, và mọi người cũng tán dương Thiên Chúa (5,25-26). Sách Công Vụ các Tông Ðồ cho biết: cộng đồng tín hữu tiên khởi tán dương Thiên Chúa trong buổi họp (Cv 2,47), v.v...
Tán dương Thiên Chúa không phải chỉ bằng miệng lưỡi. Sách Linh Thao sẽ cho thấy: sự tán dương còn cốt ở hành động, cốt ở sự đi theo Ðức Kitô, noi gương Ngài và cộng tác với Ngài trong công cuộc tông đồ, như ỏ bài Lời hiệu triệu của vua thế tục (cũng gọi là bài Vương quốc, người tĩnh tâm bày tỏ nguyện vọng được chịu sỉ nhục và sống cảnh nghèo khó "miễn đây là điều phụng sự và tán dương Chúa hơn" (s. 98,2); ý tưởng này còn được nhắc lại ở chú thích của bài suy gẫm Ba hạng người (s. 157,2-3) và ở chú thích của bài suy tư Ba kiểu khiêm nhường (s. 168,2-3; xem s. 183). Mấy bài này nói đến tán dương và phụng sự đức Kitô, nhưng chúng ta đều biết rằng đức Kitô là Thiên Chúa, và sách Linh Thao cũng gọi Ðức Kitô là Chúa chúng ta (s. 4,2-3, v.v...), là Ðấng Tạo Hóa (s. 229,4). Chúng ta cũng thấy hai ý niệm tán dương và phụng sự đi chung với nhau, và nếu dùng suy luận, chúng ta sẽ bảo rằng tán dương bằng việc phụng sự, điều này cũng hàm ẩn trong câu sau đây trong sách Linh Thao: "Suy xét trước hết việc con người sinh ra để làm gì, đó là để tán dương Thiên Chúa Chúa chúng ta và cứu rỗi linh hồn mình; và, trong khi ước ao điều này, họ chọn làm phương tiện một cuộc sống hay một bậc sống nằm trong những giới hạn của Giáo Hội, để được giúp đỡ trong việc phụng sự Chúa của mình và sự cứu rỗi linh hồn mình" (s. 177,1-2).
Tán dương Thiên Chúa bằng những việc lành, bằng đời sống thánh thiện, đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã dạy khi Ngài phán: "Ðiều tôn vinh Cha Thầy là các con sinh hoa trái dồi dào và các con trở nên môn đệ Thầy" (Ga 15,18). Làm môn đệ Chúa Giêsu cốt ở sống tốt lành bằng cách thực thi những điều Ngài khuyên dạy. Hơn nữa sống tốt lành như vậy không những chỉ là tôn vinh Thiên Chúa, mà còn là đáp ứng nhiệm vụ giúp người khác tôn vinh Ngài: "Vậy ánh sáng của anh em hãy chiếu soi trước mặt người ta để họ thấy việc lành của anh em mà tán dương Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời" (Mt 5,16). Thánh Phaolô nói rằng thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, và do đó chúng ta hãy tán dương Thiên Chúa bằng thân xác chúng ta (1 Cr 6,18-20); ông còn nói: con người chúng ta phản chiếu vinh quang của Thiên Chúa nhờ ở chúng ta trở lại cùng Thiên Chúa (2 Cr 3,16-18). Tán dương Thiên Chúa bằng việc chịu bách hại vì danh Chúa Giêsu, như thánh Phêrô khuyên các tín hữu hãy chịu khổ vì Chúa Giêsu rằng "Nếu kẻ đó là tín hữu Kitô thì không nên xấu hổ, nhưng hãy tán dương Thiên Chúa vì danh hiệu này" (1 P 4,16); không những chịu bách hại, mà còn thí mạng sống vì Thiên Chúa, như Phúc Âm thánh Gioan, khi nói đến việc Chúa báo trước cái chết tuẫn giáo của môn đệ Phêrô, đã viết: "Ðức Giêsu nói như vậy để chỉ ông Phêrô sẽ phải tôn vinh Thiên Chúa bằng cái chết nào" (Ga 21,19). Chính Chúa Giêsu cũng đã tán dương Thiên Chúa bằng cái chết đau khổ trên thập giá (13,31). Sau cùng, nói đến tán dương Thiên Chúa, chúng ta không thể không nhắc đến Thánh Lễ là của lễ tán dương hoàn hảo mà ta dâng lên Thiên Chúa. Và, trong mọi trường hợp, không phải mỗi người chúng ta tán dương Thiên Chúa một cách đơn độc, nhưng chúng ta làm công việc này trong sự hiệp nhất với Ðức Kitô là đầu và với Giáo Hội là thân thể của Ngài.
Về sự tôn kính Thiên Chúa, nền tảng của việc này chính là sự khiêm tốn nhìn nhận thân phận hèn mọn của con người là loài thụ tạo hữu hạn trước mặt Ðấng Tạo Hóa và Thiên Chúa toàn năng, có quyền tối thượng đối với mọi vật thụ tạo của Ngài. Tôn kính Thiên Chúa thuộc nhiệm vụ tôn giáo, tức nhiệm vụ tôn thờ Thiên Chúa. Chúa Giêsu, khi bị Xatan cám dỗ, đã trả lời cho nó rằng "Ngươi hãy thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và hãy thờ phượng chỉ một mình Ngài" (Mt 4,10). Ðức Maria tuy được Thiên Chúa chọn làm mẹ Ðấng Cứu Thế, đã tự nhận là tôi tớ hèn mọn được Thiên Chúa nhìn đến (Lc 1,48). Chúa Giêsu xưa, khi thấy người ta buôn bán trong đền thờ Giêrusalem, đã thịnh nộ đuổi họ ra và quở trách họ vì đã biến nhà cầu nguyện thành hang trộm cướp (Mt 21,12-13). Từ đền thờ Giêrusalem chúng ta nghĩ đến chính con người chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, như thánh Phaolô đã nói; và theo ý ông, vì là đền thờ của Thiên Chúa, chúng ta phải tự thanh tẩy khỏi vết nhơ cả xác lẫn hồn (2 Cr 6,16-18; 7,1). Còn gì bất kính bằng phạm tội, vì là xúc phạm đến chính Thiên Chúa! làm những việc đạo đức, sống thánh thiện, đó là trang hoàng đền thờ linh hồn!
Sự tôn kính Thiên Chúa còn phải được biểu lộ bằng ngôn ngữ và cử chỉ bên ngoài, tuy hình thức biểu lộ có khác nhau tuỳ theo phng tục mỗi nơi và tùy theo thời đại. Nó phải được biểu lộ, bởi lẽ tôn kính là tôn kính với tất cả con người của mình, con người gồm cả hồn và xác, tức phần vô hình và phần hữu hình. Về sự tôn kính bằng lời nói thì chúng ta đã quá rõ: về mặt tiêu cực, chúng ta biết có luật cấm lộng ngôn phạm thượng, cấm lấy danh Thiên Chúa mà thề gian, v.v...; về mặt tích cực, chúng ta dùng những từ đầy tôn kính để chỉ Thiên Chúa hoặc thưa gửi với Ngài, như Ðấng chí tôn, lạy Chúa, lạy Cha chí ái, v.v... Dưới đây chúng ta hãy nói qua đến sự tôn kính được biểu lộ bằng cử chỉ.
Trong Thánh Kinh Cựu Ước, nhiều chỗ nói đến sự cung kính đối với Thiên Chúa, như: "Họ phủ phục trước Giavê" (Nehemia 9,3); "Mọi gia đình của các quốc gia sẽ phải phủ phục trước Giavê" (Tv 21,25); "Các bạn hãy vào, chúng ta hãy cúi mình, chúng ta hãy phục lạy; hãy quì gối trước Giavê là Ðấng đã dựng nên chúng ta" (Tv 94,6); "Các bạn hãy phủ phục trước bệ tòa của Giavê: Ngài là Ðấng Thánh" (Tv 98,5), v.v...
Trong Thánh Kinh Tân Ước, chúng ta được biết rằng Chúa Giêsu, lúc ở trong vườn O-liu, Ngài đã quỳ gối (Lc 22,41) hoặc áp mặt xuống đất (Mt 26,39) để cầu nguyện cùng Ðức Chúa Cha. Ðối với chính Ngài, các môn đệ cũng đã phục lạy Ngài và thưa: "Quả thật, Ngài là Con của Thiên Chúa" (Mt 14,33). Sau khi phục sinh, lúc Ngài hiện đến gặp mấy người phụ nữ và các môn đệ, những người này phục lạy Ngài (28,9.17). Thánh Phaolô viết về Ngài: "Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và đã ban cho Ngài danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu để, khi nghe danh Giêsu, tất cả, ở trên trời, dưới đất và trong âm phủ, đều quỳ xuống" (Pl 2,9-10).
Trong nghi thức phụng vụ của Giáo Hội, có những cử chỉ tôn kính như quỳ gối, bái gối, cúi đầu, chắp tay, v.v... Trong sách Linh Thao, cụm từ Thiên Chúa (hoặc Chúa) uy linh được dùng hai mươi bốn lần, cụm từ sự uy linh rất thánh một lần, và cụm từ Sự uy linh của Chúa một lần. Thánh I-Nhã nhắc phải hết sức kính cẩn khi hầu chuyện Thiên Chúa (s. 3,3). Ngài nói đến sự tôn kính Thiên Chúa khi thề nguyền (s. 38-39); nói đến việc các ác thần đã không lợi dụng sự tự do của chúng để tôn kính và vâng phục Thiên Chúa (s. 50,4). Về cử chỉ nên có khi suy ngắm ngài viết: "Một hoặc hai bước chỗ tôi phải chiêm niệm hay suy niệm, tôi sẽ đứng lâu bằng thời gian đọc một kinh Lạy Cha. Nâng trí khôn lên cao, suy xét xem Thiên Chúa Chúa chúng ta nhìn tôi như thế nào, v.v...; và làm một hành vi tôn kính hoặc hạ mình" (s. 75). Trong bài Lời hiệu triệu của vua thế tục, (s. 91-98), ngài gọi Chúa Kitô là Vua vĩnh cửu, và nói đến triều đình thiên quốc của Vua vĩnh cửu. Trong bài chiêm niệm về Chúa giáng sinh, ngài viết: "Tôi coi mình như một trẻ em nghèo nàn và như một đứa bé nô lệ hèn hạ, nhìn, chiêm ngưỡng và hầu hạ các Ngài trong những nhu cầu của các Ngài, làm như là tôi đang có mặt, với tất cả lòng trung thuận và niềm tôn kính có thể có" (s. 114,2).
Thiết tưởng cũng nên nói thêm rằng sự tôn kính không đồng nghĩa với sự xa cách; nó vẫn có thể đi chung với sự gần gũi, thân mật. Chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh gợi ý trong sách Sáng Thế: Thiên Chúa đi dạo trong vườn Eđen là nơi cư ngụ của tổ tông Ađam và Evà trước khi phạm tội (St 3,8).
Nếu nhận Thiên Chúa là Chúa, thì việc phụng sự Ngài là lẽ dĩ nhiên. Sách Ðệ Nhị Luật trong Cựu Ước viết: "Ngươi hãy kính sợ Thiên Chúa của ngươi, hãy phụng sự Ngài" (Ðnl 6,13; xem 13,5); Sách Giuđích: "Mọi vật thụ tạo hãy phụng sự Thiên Chúa!" (Gđ 16,14). Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy hãy phụng sự một mình Thiên Chúa mà thôi: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của" (Mt 6,24).
Phụng sự Thiên Chúa cốt ở điều gì nếu không phải là tuân phục và thi hành ý muốn rất thánh của Ngài? Chính Chúa Giêsu là gương mẫu trong vấn đề này, như tác giả sách Công Vụ các Tông Ðồ gọi Ngài là Tôi tớ của Thiên Chúa (Cv 3,13), là tôi tớ thánh của Thiên Chúa được xức dầu (4,27). Nói làm tôi tớ là nói phụng sự chủ mình. Thực vậy, chính Chúa Giêsu đã nói về chính mình: "Lương thực của Ta là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Ta đến, và hoàn tất công việc của Ngài" (Ga 4,34). Thánh Phaolô viết về Chúa Giêsu rằng Ngài đã mặc lấy thân phận tôi tớ và đã chết trên thập giá để vâng lời Thiên Chúa (Pl 2,5-11). Nói vắn tắt: trọn cuộc đời trần thế xưa của Chúa Giêsu là cuộc đời phụng sự Cha Ngài, phụng sự cho tới khi chết trên thập giá để ý định cứu chuộc của Thiên Chúa được thể hiện. Ðức Maria xưa cũng đã thưa với thiên thần, sứ giả thiên quốc, rằng mình là tôi tớ của Thiên Chúa và xin vâng như lời thiên thần dạy (Lc 1,38).
Thánh ý Thiên Chúa mà chúng ta tuân phục và thi hành, được biểu lộ trong lề luật của Ngài, trong Phúc Âm trong các quyết định cùng với các lệnh truyền và lời giáo huấn của giáo hội phẩm trật và của các vị đại diện có thẩm quyền của Giáo Hội, trong các ơn soi sáng nội tâm; thánh ý Thiên Chúa, có khi chúng ta phải khám phá, và có thể là khám phá từ từ, cách riêng bằng sự cầu nguyện và sự bàn hỏi với những khôn ngoan đạo hạnh. Thánh ý Thiên Chúa, chúng ta còn nhận ra trong những biến cố và những thử thách xảy đến cho cuộc đời chúng ta.
Chúng ta phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ tha nhân, căn cứ vào câu này trong Phúc Âm: "Mỗi lần các ngươi làm sự ấy cho ai trong số những kẻ bé mọn nhất này là anh em của Ta, thì là các ngươi đã làm cho Ta rồi đó" (Mt 25,40). Ðây cũng là thi hành luật bác ái. Chúng ta phục vụ tha nhân về thể xác cũng như về linh hồn, về vật chất cũng như về tinh thần để giúp họ cùng với chúng ta theo đuổi cứu cánh cuộc đời nói trên kia.
Chúng ta phụng sự Thiên Chúa bằng sự góp phần vào việc hoàn tất công cuộc tạo thành vũ trụ của Ngài, sự góp phần tuy nhỏ mọn nhưng tận lực, để từ những sự vật vô tri giác tới cầm thú đều tán dương Ngài theo cách thức của chúng (x. Tv 148) và qua trung gian là chúng ta, những con người. Trong tiến trình của khóa Linh Thao, người tĩnh tâm sẽ nhận thấy mình phụng sự Thiên Chúa với và trong Ðức Kitô bằng cách đáp lại tiếng gọi của Ðức Kitô để đi theo Ngài trong sứ mệnh cứu thế của Ngài (bài Hai lá cờ hiệu).
Tóm lại, con người, cùng với hết các vật thụ tạo khác trong vũ trụ, là như những tia sáng phát xuất từ vinh quang của Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài qua việc tạo thành con người và vạn vật. Về phía con người, với tư cách là hữu thể thụ tạo có lý trí, bằng việc tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, họ hướng về nguồn, trở lại nguồn, hiệp nhất với nguồn. Ba việc tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, là cách thức họ thể hiện mối quan hệ của mình với Ðấng là Tạo Hóa và là Thiên Chúa. Như vậy, bằng sự trở lại nguồn, họ tham dự vinh quang Thiên Chúa; bằng sự thể hiện mối quan hệ qua cách thức vừa nói, họ làm cho Thiên Chúa được vinh quang (vinh quang ngoại tại, nói theo thần học). Vì thế đây là một sứ mệnh và ơn gọi trọng đại và cao quý dành cho con người, chúng làm nên ý nghĩa cuộc đời.
Cả ba công việc tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa mà con người thực hiện xét như họ là hữu thể thụ tạo, thì kể như không là gì đối với Thiên Chúa. Ðể dùng hình ảnh mà nói, nếu con sâu, con kiến không là gì trước mặt con người, thì con người cũng như thế và cả không được như thế trước mặt Thiên Chúa. Thánh vịnh có câu: "Khi nhìn các tầng trời là công trình của những ngón tay Ngài, (khi nhìn) trăng sao mà Ngài đã định chỗ cho, thì trần nhân là gì để Ngài nhớ đến, con người là gì để Ngài bận tâm?" (Tv 8,4-5). Vậy ở đây nên thêm rằng những điều chúng ta làm cho Thiên Chúa, trở nên có giá trị là nhờ trung gian Ðức Kitô Ðấng là Thiên Chúa Ngôi Hai đã Nhập thể và giáng trần để làm người như mọi người và hoà mình vào trong nhân loại, Ðấng trở nên đầu của thân thể là Giáo Hội và là người anh cả của chúng ta. Vì thế kinh Thánh Thể II của Thánh Lễ có câu: "Xin cho chúng con được tôn vinh Cha nhờ Ðức Giêsu Kitô, con yêu quý của cha" - xin nhấn mạnh từ nhờ trong câu. Cũng nên nhắc lại câu đã trích dẫn: "Nhờ Người chúng ta hãy không ngừng dâng lên Thiên Chúa hy lễ tán dương" (Dt 13,150.
Cả ba công việc tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên gắn bó hữu cơ với nhau để làm thành cùng đích đời người, đến nỗi không thể thiếu một trong ba. Thực vậy, chúng ta hãy lấy việc phụng sự Thiên Chúa làm ví dụ: phụng sự bao hàm tán dương, bởi lẽ phụng sự Thiên Chúa bằng sự tuân phục và thi hành thánh ý Ngài là một cách công nhận và tuyên xưng Ngài là Chủ Tể tối cao, là Ðấng toàn năng toàn thiện, là Ðấng đã và đang thực hiện những kỳ công trong trời đất. Chính Chúa Giêsu, do sự vâng lời hoàn hảo là vui nhận cái chết trên thập giá, Ngài tuyên bố Ngài đã tôn vinh Cha Ngài bao hàm sự nhìn nhận rằng Thiên Chúa có quyền tối thượng đối với mọi loài thụ tạo.
Sau cùng, tuy bài Nguyên lý và Nền tảng không nói đến việc con người yêu mến Thiên Chúa, nhưng tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa chính là ba hành vi yêu mến của con người đối với Ngài, bởi lẽ, như đã nói trên, chúng là sự nhìn nhận và tuyên xưng Thiên Chúa là Thiên Chúa của mình. Thánh lễ chính là của lễ mà con người dâng lên Thiên Chúa với tất cả tấm lòng yêu mến, nhưng trong Thánh Lễ, ở phần chung gọi là Nghi Thức Thánh Lễ, không chỗ nào dùng đến câu "Chúng con yêu mến Chúa" hoặc những câu tương tự, có lẽ chỉ trừ trong Thánh Lễ trẻ em I và II ở phần sau Truyền Phép, trái lại, có những câu nói đến thờ lạy Thiên Chúa, tán dương Thiên Chúa, tung hô Thiên Chúa, cảm tạ Thiên Chúa, như thấy trong kinh Vinh Danh và các kinh Tiền Tụng. Không kể Thánh Lễ, chúng ta có kinh ngắn rất phổ cập: kinh Sáng Danh, và kinh này quen dùng để kết thúc các thánh vịnh, v.v...
Ba công việc tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa là ba công việc thuộc cùng đích đời người, bởi vậy không phải là điều lạ khi, trong sách Linh Thao, lời nguyện mở đầu các bài suy ngắm luôn luôn là xin ơn thực hiện ba công việc đó: "Xin Thiên Chúa Chúa chúng ta ban ơn để cho mọi ý hưóng, hành vi và hoạt động của tôi thuần túy quy hướng về phụng sự và tán dương Thiên Chúa uy linh" (s. 46). Lời nguyện này không nói rõ đến tôn kính Thiên Chúa, nhưng cụm từ "Thiên Chúa uy linh" bao hàm ý niệm tôn kính phải có đối với Thiên Chúa.
Những từ tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa còn xuất hiện ở nhiều chỗ khác trong sách Linh Thao như sau.
Cụm từ phụng sự và tán dương Thiên Chúa: dùng trong bài Vưong quốc, Ba hạng người, Ba kiểu khiêm nhường. Ngoài ra từ phụng sự và từ tán dương tách rời nhau, còn gặp thấy ở nhiều chỗ khác. Sách linh Thao dùng tất cả hai mươi ba lần từ tán dương và ba mươi ba lần từ phụng sự để chỉ ứng xử của con người trong quan hệ với Chúa.
Về từ chỉ hành vi tôn kính chúa được diễn đạt qua cụm từ Tây Ban Nha hacer reverencia, sách Linh Thao dùng bốn lần: một lần trong bài Nguyên lý và Nền tảng, hai lần ở mục nói về việc thề (s. 39,4-7), và một lần ở bài suy niệm thứ nhất về tội (s. 50,4).
Từ chỉ sự tôn kính, reverencia, dùng độc lập, nghĩa là không nằm trong cụm từ hacer reverencia nói trên, được dùng bảy lần.
Liên quan đến ý niệm tôn kính, là từ (Chúa) uy linh, Majestad, đã nói trên kia.
Thiên
Chúa là Ðấng trung thành, như
Thánh Kinh đã nói (xem Tb 14,4; Ds 23,9;
tv 35,6, v.v...), vì thế Ngài không từ
bỏ ai bao giờ, nếu họ sống theo
đúng mối quan hệ của mình đối
với Ngài bằng ba việc tán dương,
tôn kính và phụng sự Ngài.
Ðàng khác, chu toàn nhiệm vụ
tán dương, tôn kính và phụng
sự Thiên Chúa, đó là đi
đúng cùng đích đời
người. Vì thế kết quả
là, về bản thân, con người
sẽ cứu rỗi mình. Vậy nếu
nhiệm vụ hay cùng đích kia là
trọng đại, thì ở đây
sự cứu linh hồn mình là
điều thuộc vận mệnh cao cả của
con người. Ðây là mối
quan hệ của con người đối
với chính bản thân hoặc nói
cách khác, của tôi chủ thể
đối với khách thể (đối
tượng). Bài Nguyên lý và
Nền tảng nói con người cứu
rỗi mình, chứ không nói con
người được cứu
rỗi. Ðiều này hàm ý rằng
tuy ơn cứu độ là ơn ban không
của Thiên Chúa, nhưng về phía
mình, con người phải tích cực
cộng tác với Ðấng ban ơn;
và ở đây sự cộng tác
cốt ở cố gắng thực hiện
nhiệm vụ tán dương, tôn kính
và phụng sự Ngài. Nếu nhiệm
vụ này làm nên cứu cánh
gần của con người ở trần
gian, thì sự rỗi linh hồn là
cứu cánh xa của con người
trong kiếp sau, và là kết quả của
sự đạt tới cứu cánh
gần. Không phải là theo đuổi
cứu cánh gần để nhằm
đạt tới cứu cánh xa, nhưng
cả hai cứu cánh gắn bó với
nhau: đạt tới cái kia thì cũng
đạt tới cái này. Có
thể nói cách khác, cứu cánh
xa là sự nối dài của cứu
cánh gần, vì cứu rỗi mình
chính là làm rạng danh Thiên Chúa,
là một cách tán dương Ngài
do ở sự cộng tác vào ân
sủng của Ngài để cho ân sủng
sinh ra thành quả tốt đẹp là
sự rỗi linh hồn; lại nữa,
sự tán dương Thiên Chúa, cùng
với sự tôn thờ và
cảm tạ Ngài, con người sẽ
không ngừng thực hiện trên
thiên đàng trong sự hiệp thông
với tất cả các thần thánh.
Cũng vì thế mà còn có thể
bảo rằng đây là hai hướng
nhìn khác nhau liên quan đến cùng
một thực tại hay sự kiện.
Một chi tiết: bài Nguyên lý và Nền tảng nói tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, rồi mới nói tới cứu rỗi linh hồn mình. Vậy đây là thứ tự thời gian: ở đời này tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, ở đời sau là được sự rỗi linh hồn. Thứ tự này cũng hợp với thứ tự nhân quả hiểu theo nghĩa rộng;: vì ở đời này tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, nên ở đời sau được rỗi linh hồn. Nhưng điều muốn nói thêm ở đây, là cách trình bày đó còn có khả năng gợi ý rằng sự chú ý của người tĩnh tâm hướng lên Thiên Chúa trước, rồi mới quay về bản thân. Cũng như trong kinh Lạy Cha, chúng ta bày tỏ nguyện vọng liên quan đến Thiên Chúa trước, rồi mới xin những điều liên quan đến bản thân chúng ta.
Ý tưởng về sự cứu rỗi mình đã được nêu ra ngay ở chú dẫn thứ nhất là chú dẫn mở đầu sách Linh Thao. Chú dẫn này giải thích rằng Linh thao là cách "sửa soạn và chuẩn bị linh hồn để cởi bỏ mọi ưa thích lệch lạc và để, sau khi đã cởi bỏ chúng, đi tìm và tìm thấy ý muốn của Thiên Chúa trong việc sắp đặt cuộc đời mình nhằm sự rỗi linh hồn" (s. 1,3-40. Ở mục về việc lựa chọn cũng có câu nói rất rõ đến sự cứu rỗi mình: "Trong mọi sự lựa chọn tốt, riêng về phần chúng ta, con mắt ý hướng của chúng ta phải đơn sơ chỉ nhìn vào cái mà vì nó tôi được dựng nên, đó là để tán dương Thiên Chúa Chúa chúng ta và cứu rỗi linh hồn tôi; và như thế, bất cứ cái gì tôi lựa chọn đều phải là giúp tôi tới cứu cánh mà vì nó tôi được dựng nên" (s. 169,1-3).
Nghĩ đến sự cứu rỗi linh hồn mình không phải, như một số người lo sợ, là sống theo quan niệm cá nhân chủ nghĩa, tức mỗi người chỉ biết lo cho mình và không quan tâm đến tha nhân. Chính Chúa Giêsu đã chẳng bảo người ta phải lo đến sự rỗi linh hồn của mình đó sao khi Ngài phán: "Kẻ nào muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất nó; nhưng kẻ nào đáng mất nó vì Ta thì sẽ được nó. Và con người được lợi gì khi kiếm được cả thế gian nhưng phải trả giá bằng sự sống mình?" (Mt 16,25-26). Trong dụ ngôn về mười cô trinh nữ, Chúa đã khen năm cô trinh nữ là khôn ngoan vì các cô biết liệu đủ dầu để thắp đèn đón chú rể vào lúc đêm khuya (25,5 tt). Nếu muốn giải thích rằng lo cứu rỗi mình không phải là sống theo quan niệm cá nhân chủ nghĩa, thì cũng dễ. Thực vậy, mỗi người, để chu toàn nhiệm vụ tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, phải đồng thời giúp đỡ tha nhân cùng chu toàn nhiệm vụ đó, vì nếu không làm như vậy thì sao gọi được là sống cho vinh quang Thiên Chúa và là phụng sự Thiên Chúa! Nhưng chúng ta hãy đợi, vấn đề tông đồ này sẽ được đề cập minh nhiên khi chúng ta bắt đầu tìm hiểu Tuần Hai của sách Linh Thao với bài Lời hiệu triệu của vua thế tục (bài Vương quốc). Dù sao, theo bài Nguyên lý và Nền tảng, không thể khẳng định cùng đích đời người là giúp tha nhân lo việc rỗi linh hồn của họ, tuy, như vừa mới nói, giúp đỡ họ lo việc rỗi linh hồn cũng như giúp đỡ họ bằng các việc bác ái khác, là những cách tán dương và phụng sự Thiên Chúa.
Cùng đích đời người, mỗi người phải, nhờ ơn Thiên Chúa, lo đạt tới chứ không một ai khác đạt tới thay cho mình: mỗi người có nhiệm vụ đối với Thiên Chúa là tán dương, tôn kính và phụng sự Ngài, tuy có những trường hợp họ làm những công việc này chung với cộng đồng hoặc với tư cách là thành viên của cộng đồng; mỗi người phải chính mình đảm nhiệm công việc liên quan đến sự rỗi linh hồn của mình. Ý tưởng về sự cứu rỗi mình có liên hệ trực tiếp đến những bài suy niệm về tội thuộc Tuần Nhất, ở đó người tĩnh tâm thống hối về những tội đã phạm và quyết tâm sửa mình, còn ở bài Nguyên lý và Nền tảng này, câu cuối cùng: "Chúng ta chỉ ước ao và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta hơn tới cứu cánh mà vì nó chúng ta được dựng nên" sẽ mở cửa cho chúng ta đi vào nhiệm vụ tông đồ, tuy không nhấn mạnh đến nhiệm vụ này. Nên nhắc lại ở đây rằng sách Linh Thao giới thiệu một phương pháp giúp người ta đi tìm thấy thánh ý Thiên Chúa; và phương pháp này có sư phạm của nó, mà một trong những đặc điểm là tính cách tuần tự và tiệm tiến trong một chuỗi dài các bài tập của mỗi Tuần và của Tuần này tiếp đến Tuần khác, như sẽ có dịp thấy rõ. Không nên đòi một bài tập hay một bài suy tư trong sách Linh Thao phải đề cập hết mọi vấn đề hoặc hết mọi khía cạnh của một vấn đề.
Ðể phù hợp với điều vừa nói, chúng ta có đủ cơ sở để bảo rằng bài Nguyên lý và Nền tảng không phải là bài suy tư về tình yêu của Thiên Chúa được biểu hiện trong công cuộc tạo thành. Ðã hẳn thực hiện ba việc tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa là điều vinh dự lớn lao cho con người, và vì thế không chỉ nói rằng con người phải (hoặc có nhiệm vụ) mà nên thêm: con người được tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa; hơn nữa, do thực hiện ba việc này mà con người cứu rỗi mình, nghĩa là đạt được hạnh phúc vĩnh cửu nơi Thiên Chúa, được hiệp nhất với Ngài. Ðây chính là tận điểm của công trình tạo thành của Ngài. Vậy rõ ràng tình yêu của Ngài đối với con người là khôn tả. Nói rộng hơn, lý do của việc tạo thành của Thiên Chúa chính là tình yêu của Ngài; và vinh quang của Ngài trong công cuộc tạo thành chính là ở chỗ tình yêu của Ngài được biểu lộ và thông ban cho loài thụ tạo.
Tuy nhiên, chủ đích của bài Nguyên lý và Nền tảng là suy về ba công việc thuộc nhiệm vụ (và vinh dự) nói trên của con người trong quan hệ với Thiên Chúa, và về hệ luận rút ra từ nhiệm vụ đó liên quan đến thái độ và ứng xử đối với các vật thụ tạo. Chúng ta hãy chờ khi sang bài suy niệm đầu tiên (về tội) của Tuần Nhất: ở phần tâm sự của bài này, người tĩnh tâm sẽ suy về tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện nơi cái chết của Ðức Kitô trên thánh giá. Ở Tuần Hai, bài chiêm niệm đầu tiên của ngày thứ nhất, tức bài Nhập Thể, sẽ cho thấy tình thương của Thiên Chúa Ba Ngôi qua việc Ngôi Hai nhập thể để thực hiện kế hoạch cứu độ nhân loại; bài chiêm niệm tiếp theo, bài Giáng Sinh, khi nói đến những khổ cực, đói khát, v.v... Chúa phải chịu và cả cái chết mai sau của Chúa trên thập giá (s. 116), cũng là nhắc đến tình thương của Ngài, Ðấng là Thiên Chúa Ngôi Hai. Rồi sang Tuần Ba, người tĩnh tâm sẽ có dịp suy về tình yêu của Ðức Kitô được biểu lộ trong cuộc Tuẫn nạn, v.v... Nhưng đặc biệt hơn cả, là bài Chiêm niệm để đạt được tình yêu mà người tĩnh tâm sẽ làm để kết thúc khóa Linh Thao. Bài này cho một cái nhìn tổng quát và bao quát về tình yêu của Thiên Chúa; nó cũng đề cập công trình tạo thành của Thiên Chúa, nhưng nhìn dưới góc độ tình yêu của Ngài. Tóm lại, mỗi bài tập có chỗ của nó trong một chương trình tự chung.
Con người sống là sống trong trời đất này; con người sống nhờ có ánh sáng mặt trời từ xa thẳm (mặt trời cách trái đất khoảng 150,000,000 cây số) chiếu xuống, nhờ hút thở dưỡng khí trong bầu khí quyển bao la, nhờ hấp thụ các chất hữu cơ và vô cơ do thiên nhiên cung cấp qua các đồ ăn thức uống để có xương, có thịt, có máu, có sức khỏe, v.v.. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây, là con người cùng với vạn vật trong vũ trụ đều do Thiên Chúa duy nhất dựng nên và đều thuộc về Ngài. Vậy sau khi nhìn vào vị trí của mình trong quan hệ với Thiên Chúa, con người nhìn vào vị trí của mình trong quan hệ với mọi vật hữu hình xét như là chúng được Thiên Chúa dựng nên, nghĩa là con người nhìn mình trong quan hệ với chúng trong khi không tách rời chúng khỏi quan hệ với Thiên Chúa, Ðấng mà con người tán dương, tôn kính và phụng sự: "Và các sự vật khác trên mặt đất được dựng nên." Nhưng ranh giới hoặc cấp bậc giữa con người và chúng được xác định: chúng được dựng nên cho con người. Ðây cũng là ý tưởng trong sách Sáng Thế liên quan đến việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán với những con người đầu tiên: "Các ngươi hãy sinh con cho nhiều, hãy làm đầy trái đất và cai quản nó. Các ngươi hãy chế ngự cá biển, chim trên trời và mọi vật sống động trên đất (...) Này đây Ta cho các ngươi mọi thứ rau cỏ kết hạt mọc khắp mặt đất và mọi thứ cây cối có quả sinh hạt giống; đó là lương thực của các ngươi" (St 1,28-29). Vậy trong khi bên kia, bằng ba hành vi tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, ba hành vi của riêng chủ thể có lý tính, con người được coi là trổi vượt các vật thụ tạo hữu hình, thì ở đây con người còn giữ địa vị cao khác là địa vị của kẻ có quyền sử dụng chúng.
Thiên Chúa trao cho con người quyền sử dụng các vật thụ tạo. Nhưng không phải vậy mà con người muốn sử dụng chúng làm sao thì sử dụng, vì bài nguyên lý và Nền tảng nói rõ: "Và để giúp họ trong việc theo đuổi cứu cánh mà vì nó họ được dựng nên." Với câu này, bài suy tư nêu ra và xác định vai trò của các vật thụ tạo trong quan hệ với con người. Nên để ý: bản văn dùng từ và để nối hai mệnh đề: "Các sự khác trên mặt đất được dựng nên cho con người" và "để giúp họ theo đuổi cứu cánh." Nói theo văn phạm, cả hai mệnh đề là một câu ghép đẳng lập. Mệnh đề thứ nhất có ý nói rằng các vật thụ tạo được dựng nên là được dựng nên cho con người, và đây cũng là ý tưởng trong sách Sáng Thế mà trên kia đã có ghi câu trích dẫn (St 2,29-30). Mệnh đề thứ hai có ý nói đến vai trò của các vật thụ tạo. Ðể thấy rõ hơn, chúng ta sẽ bảo rằng mệnh đề thứ nhất sẽ trả lời cho câu hỏi: "Các vật thụ tạo được dựng nên cho ai?" Một câu hỏi được đặt ra cho con người khi con người nhìn vào mọi sự vật trong trời đất; và câu trả lời cho thấy mối quan hệ lệ thuộc của chúng đối với con người, đồng thời xác nhận quyền của con người đối với chúng. Mệnh đề thứ hai trả lời cho câu hỏi: "Các vật thụ tạo được dựng nên (cho con người) để làm gì?" Và câu trả lời cho biết cái mà các vật thụ tạo phải thực hiện cho con người trong sự quan hệ lệ thuộc của chúng vào con người. Trên kia là con người được dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, ở đây là các vật thụ tạo giúp con người thực hiện ba công việc đó; điều này còn có nghĩa là chúng cũng phải qua con người mà quy hướng về Thiên Chúa, Ðấng dựng nên chúng.
Con người tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa khi họ sử dụng các vật thụ tạo của Ngài vào những việc tốt lành, bởi lẽ làm những việc tốt lành chính là tán dương, tôn kính và phụng sự Ngài do ở chỗ đó là sống và làm theo đúng như ý muốn của Ngài khi Ngài dựng nên con người. Bài Nguyên lý và Nền tảng không gọi các vật thụ tạo là những phương tiện này cho chúng (s. 169). Theo thiển ý, việc bài Nguyên lý và Nền tảng không dùng từ phương tiện là điều thích hợp. Thực vậy, khi gọi một vật nào đó là phương tiện, người ta dễ có cảm tưởng nó là cái mà người ta sử dụng bao lâu nó cần thiết hoặc hữu ích, và người ta sẽ bỏ nó khi nó không còn là như thế nữa; đàng khác, không phải hễ cái gì giúp đỡ thì đều được hoặc bị xếp chung vào hạng dụng cụ. Nhưng bài Nguyên lý và Nền tảng đưa ra cái nhìn bao quát về toàn thể các vật thụ tạo ở trong quan hệ với Thiên Chúa là Ðấng Tạo Hóa. Theo cái nhìn vũ trụ này, tất cả các vật thụ tạo, kể cả con người, với tư cách là loài thụ tạo, đều quy hướng về "Ðấng Tạo Hóa và Chúa", đều ở trong chuyển động trở về Ngài xét như Ngài là nguồn gốc và Chủ tể. Con người khi sử dụng các vật thụ tạo để theo đuổi cứu cánh của đời mình, thì là chính mình ở trong chuyển động trở về Thiên Chúa, đồng thời cũng đặt những vật thụ tạo đó ở trong cùng một chuyển động với mình. Con người được coi như là ý thức của vũ trụ. Vì thế không phải chỉ con người mới chúc tụng Thiên Chúa, nhưng là con người cùng với các vật thụ tạo khác chúc tụng Ngài, hoặc các vật thụ tạo khác chúc tụng Ngài qua trung gian con người. Trong viễn tượng này, chúng còn chúc tụng Thiên Chúa bằng việc giúp con người theo đuổi cứu cánh của đời mình.
Hơn thế nữa, chúng ta còn thấy có sự gần gũi giữa con người chúng ta và các thụ tạo trong việc chúng ta tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa là chúng ta tán dương, tôn kính và phụng sự Ngài bằng toàn thể bằng toàn thể con người chúng ta, mà con người chúng ta là con người với cái thân xác hữu hình. Vậy thân xác chúng ta được cấu thành bởi các vật thụ tạo trong thiên nhiên; chúng ta sống và có sức khỏe, v.v..., cũng là nhờ đến các vật thụ tạo đó. Rồi trong lĩnh vực siêu nhiên, bánh và rượu dùng trong bí tích Thánh Thể là những vật thụ tạo ở chung quanh chúng ta; trong các bí tích như Thanh Tẩy, Truyền Chức, nước lã và dầu thánh dùng làm chất thể của bí tích, cũng là những vật thụ tạo; hương, hoa, nến, v.v..., chúng ta dùng vào việc phụng tự, cũng thế.
Các vật thụ tạo không phải chỉ để cho con người sử dụng, nhưng chính chúng, do ở sự kiện chúng là nơi Thiên Chúa hiện diện và biểu lộ quyền lực, còn giúp con người tôn kính Thiên Chúa, như chúng ta đọc thấy trong sách Linh Thao ở mục về vấn đề thề (s. 39,6-7); đặc biệt hơn nữa, ở bài Chiêm niệm để đạt được tình yêu, các vật thụ tạo giúp con người yêu mến Thiên Chúa do chúng là bằng chứng và biểu hiện của tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Riêng ở bài Nguyên lý và Nền tảng này, câu "Và các sự vật khác trên mặt đất được dựng nên cho con người" cũng cho phép chúng ta có cảm tưởng rằng trong khi trên kia con người như có ước vọng tự nhiên tìm về Thiên Chúa là nguồn gốc, thì ở đây, về phía Ngài, Ngài cũng có ước vọng lôi kéo hoặc cuốn hút con người xét như là hữu thể thụ tạo, vào với Ngài là Hữu thể tuyệt đối và tự hữu; ước vọng này được biểu lộ qua việc Ngài dựng nên vạn vật để chúng giúp con người thể hiện ước vọng của mình là tìm về Ngài và gặp Ngài.
Ðây là hệ luận rút ra từ ý tưởng trên kia theo đó các vật thụ tạo được dựng nên cho con người và nhằm giúp con người đạt tới cứu cánh của mình. Cũng từ đây trở đi bài suy tư đi vào vấn đề con người phải sử dụng các vật thụ tạo như thế nào. Xem ra có sự mâu thuẫn giữa hai ý tưởng: một đàng là các vật thụ tạo nhằm giúp con người theo đuổi cùng đích của mình, đàng khác là phải gạt bỏ đi những vật nào ngăn cản con người theo đuổi cùng đích đó, tức điều này hàm ý rằng các vật thụ tạo tuy được Thiên Chúa dựng nên và dựng nên cho con người, nhưng lại không phải tất cả đều giúp con người. Thực ra khi bảo rằng các vật thụ tạo trở thành cản vật, thì đó chỉ là một lối nhìn hay một cách nói tiện lợi mà thôi, bởi lẽ, xét cho kỹ, chính con người biến chúng trở thành cản vật cho mình do việc con người vì thiếu sáng suốt, thiếu khôn ngoan, thiếu ý chí, thiếu nghị lực, hoặc vì tham lam, vì ích kỷ, mà đi đến với chúng nhằm tìm cho mình sự thỏa mãn quá mức hoặc bất chính cho những bản năng, những xu hướng hay những thói quen của mình. Vì thế thánh Phaolô nói về những kẻ thuộc về Ðức Kitô rằng họ là những kẻ "đã đóng đanh xác thịt vào thập giá cùng với những đam mê và ước vọng của họ" (Gl 5,24). Tìm đến các vật thụ tạo như nói trên, đó chính là tự mình để cho mình bị tha hóa vào chúng; con người không còn đi tìm Thiên Chúa nữa.
Vậy vấn đề là sử dụng chính đáng quyền sử dụng mà Thiên Chúa ban cho. Chúng ta đang đứng trên bình diện siêu nhiên để nhìn vấn đề. Cùng một sự vật nào đó, người này dùng vào việc tốt, người khác dùng vào việc xấu. Tuy nhiên, một sự vật có thể là dịp để cho một người thiếu khôn ngoan, thiếu tự chủ, v.v... dùng nó vào việc xấu, và trong trường hợp này chúng ta gán cho nó cái cảm nghĩ của riêng chúng ta về nó để bảo rằng nó lôi cuốn chúng ta hoặc nó là mối nguy hiểm cho chúng ta.
Các sự vật có đó để đáp ứng nhu cầu và sự ưa thích của chúng ta. Ðối với một người đang đói thì bát cơm đáp ứng nhu cầu ăn nó của họ; nhưng họ sẽ dửng dưng với nó khi no bụng. Chúng ta muốn có tiền của để bảo đảm cuộc sống vật chất, để mua sắm những cái chúng ta ưa thích, v.v..., nhưng chúng ta lại đổ cho nó là nó cám dỗ chúng ta! Bởi thế trên kia mới nói rằng khi chúng ta coi một vật như một cản trở, thì đó là một lối nhìn hay một cách nói. Trong viễn tượng này và vì lý do tiện lợi trong cách diễn đạt, chúng ta bảo rằng, về mặt thiêng liêng, một vật thụ tạo nào đó là hữu ích, vô dụng hay nguy hiểm cho chúng ta, hoặc chúng ta bảo rằng nó hữu ích hay hữu ích hơn trong trường hợp này, trong giai đoạn này, và kém hữu ích hay vô ích và cả có hại trong trường hợp khác, trong giai đoạn khác. Cũng đứng trong viễn tượng này, chúng ta bảo rằng ngay đến những phần thân thể của chúng ta cũng có thể bị coi như là trở thành chướng ngại vật cho chúng ta. Chúa Giêsu đã khuyên nhủ: "Nếu con mắt phải anh làm anh phạm tội thì hãy móc nó ra mà quẳng xa đi, vì mất một phần thân thể thì có lợi cho anh hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Và nếu tay phải anh làm dịp cho anh phạm tội thì hãy chặt nó và quẳng đi, vì mất một phần thân thể thì có lợi cho anh hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục" (Mt 5,29-30). Vậy con người, vì được Thiên Chúa ban cho khả năng phán đoán và sự tự do, nên phải biết cân nhắc trong việc chọn lựa và sử dụng các vật thụ tạo cho hợp lý, đúng chỗ, đúng lúc. Ðiều này thuộc về việc đi tìm thánh ý Thiên Chúa, và nhiều khi nó cần đến sự hướng dẫn của những người khôn ngoan và đạo đức.
Sau khi đã bảo con người phải cởi bỏ những cái gì ngăn cản mình trên con đường theo đuổi cùng đích cuộc đời, bài suy tư đi xa hơn nữa với câu trích dẫn trên đây. Từ câu trích dẫn này trở đi, bài suy tư dùng từ chúng ta thay cho từ con người: "Chúng ta làm cho mình trở nên dửng dưng." Với từ chúng ta, có lẽ bài suy tư muốn hàm ý rằng đây là một áp dụng hay một nhắc bảo không phải dành cho con người nói chung, nhưng liên hệ trực tiếp đến những con người cụ thể là tôi, là chúng ta, là anh hay chị, là các anh hay chị, v.v... Hơn nữa, xem ra bài suy tư còn hàm ý khác: điều áp dụng hay nhắc bảo kia dành cách riêng cho người làm Linh Thao như chúng ta sẽ thấy sau, nhất là khi dùng đến từ hơn trong câu: "Cái gì dẫn đưa chúng ta hơn tới cứu cánh", bởi lẽ gạt bỏ bất cứ cái gì ngăn cản sự theo đuổi cùng đích đời người, là điều bắt buộc hiển nhiên rồi, như đã thấy trên kia.
Lời nhắc bảo then chốt ở đây là hãy dửng dưng đối với các vật thụ tạo. Sự dửng dưng, theo ý bản văn, không có nghĩa là không ưa thích cái này hay cái nọ, nhưng là không ưa thích cái này hơn cái nọ, tức giữ sự trung lập, như bản văn đã giải thích rõ rằng không muốn sức khỏe hơn bệnh tật, cái giàu hơn cái nghèo, v.v... Nói không ưa thích cái này hơn cái nọ, là có ý bảo rằng đừng để cho sự ưa thích sẵn có đối với một vật hay một sự nào ảnh hưởng đến việc chọn lựa, khiến cho việc chọn lựa thiếu tính cách khách quan, điều có hại đến quy tắc hay chuẩn mực sẽ nói sau là chỉ chọn cái giúp chúng ta hơn trong việc theo đuổi cùng đích đời người. Trong sách Linh Thao, mục bàn về công việc lựa chọn cũng có một câu xác định ý niệm dửng dưng: "Cần phải thấy mình dửng dưng, không có sự ưa thích lệch lạc nào, cho nên tôi không nghiêng về cũng không ham chuộng việc lấy cái đã được giới thiệu hơn là bỏ nó, hoặc bỏ nó hơn là lấy nó; nhưng tôi thấy mình như ở điểm giữa của chiếc cân để theo cái mà tôi cảm thấy giúp hơn cho vinh quang của Thiên Chúa Chúa chúng ta và cho sự tán dương Ngài, và cho sự rỗi linh hồn tôi". (s. 179,2-3).
Ðể có thể dửng dưng như vậy, nhiều khi chúng ta phải nỗ lực chiến đấu chống lại xu hướng tự nhiên hoặc chống lại cảm tính. Ý tưởng này hàm ẩn trong câu: "Chúng ta cần phải làm cho mình trở nên dửng dưng", chẳng hạn nếu theo xu hướng tự nhiên thì chúng ta thích sống giầu sang hơn chịu cảnh nghèo khó; nhưng có khi chúng ta phải hoặc nên chống lại cái xu hướng đó để chọn sự nghèo khó thay vì sự giàu sang. Chúng ta hãy nhìn vào chính Chúa Giêsu: khi gần tới mồ ông Lagiarô, Ngài không bình tâm hay bình tĩnh, nhưng Ngài "thổn thức trong lòng và xao xuyến", và Ngài đã khóc (Ga 11,33.35). Trong thời gian gần đến cuộc Tuẫn nạn, Ngài nói với các môn đệ: "Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến!" (12,27). Trong vườn Ghetsêmani, như Phúc âm theo thánh Máccô ghi rõ: "Ngài bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Ngài nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn rầu đến chết được" (Mc 14,33-34), nhưng điều đáng chú ý là, mặc dù vậy, và mặc dù Ngài đã ngỏ ý cùng Ðức Chúa Cha xin cất chén đắng đi, Ngài đã "dửng dưng" với cái chết đau khổ sắp đến để chọn ý định của Ðức Chúa Cha: "Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Lc 22,42). Rõ ràng sự dửng dưng ở đây là một thái độ, nó vượt xa có khi đi ngược lại cảm tính hay xu hướng tự nhiên.
Phạm vi của sự dửng dưng được xác định: "Trong tất cả những gì dành cho sự tự do chọn lựa và không bị ngăn cấm đối với sự tự do này." Về cái cho phép được tự do chọn lựa, đó là ví dụ trường hợp một người, vì họ còn độc thân, nên họ có tự do chọn lập gia đình hay đời sống tu hành với ba tu nguyện; nhưng một khi họ đã lập gia đình rồi thì họ không có quyền ly dị để đi tu, hoặc nếu họ đã phát nguyện vĩnh viễn trong đời tu thì họ không có quyền tự ý đi lập gia đình. Về cái không ngăn cấm sự tự do chọn lựa, chúng ta hiểu chung là tất cả những cái gì tốt; vì thế dửng dưng là dửng dưng đối với những cái tốt đó, hiểu nghĩa là không có sự "ưa thích lệch lạc", chứ không phải dửng dưng đối với những cái bị cấm chọn trong đó gồm cả những cái làm cản vật trên con đường theo đuổi cứu cánh đời người, bởi vì, theo bài suy tư, những cái này đều là những cái phải bị gạt bỏ đi. Bài suy tư đưa ra mấy cặp sự kiện làm ví dụ: sức khỏe và bệnh tật, sự giàu sang và sự nghèo khó, danh vọng và nhục nhã, cuộc sống dài và cuộc sống vắn. Mỗi cặp gồm hai cái đối lập nhau và là những cái không bị cấm đoán. Câu: "Và cứ như thế đối với mọi sự khác" cũng hiểu là những cặp không bị cấm đoán, ví dụ nơi cư trú này hay nơi cư trú nọ, công việc này hay công việc khác, v.v... Vậy xét theo tính tự nhiên, chúng ta nghiêng về thành phần thứ nhất trong mỗi cặp mà bài suy tư đưa ra làm ví dụ, tức chúng ta muốn sức khỏe hơn bệnh tật, sự giàu sang hơn cảnh nghèo khó, v.v... Nhưng, như đã nói trên, sự dửng dưng không cho phép chúng ta buông mình theo tính tự nhiên đó khi thực hiện việc chọn lựa.
Một chú thích: trên kia khi nói rằng các vật thụ tạo được dựng nên cho con người, chúng ta hiểu chúng là những cái gì ở bên ngoài con người, như tiền bạc, nhà ở, hoa trái, v.v... đúng với ý tưởng trong sách Sáng Thế về việc Thiên Chúa dựng nên vạn vật và trao cho con người quyền sử dụng; đàng khác khi nói các vật thụ tạo được dựng nên cho con người, tức là hàm sự phân biệt giữa một bên là con người và một bên là các vật khác. Nhưng ở đây, khi bảo phải dửng dưng đối với các vật thụ tạo, bài suy tư nói cả đến sức khỏe và bệnh tật, đến sống thọ và chết trẻ, vì thế ý niệm vật thụ tạo mở rộng hơn để chỉ cả những cái thuộc về chính con người. Về vấn đề sức khỏe và sự sống mà bài suy tư đưa ra làm ví dụ, thì dù chúng ta có tìm mọi phương thế cũng không nhất thiết chúng ta sẽ được mạnh khỏe hay sống lâu; nhưng có những trường hợp sức khỏe và sự sống thuộc quyền chọn lựa chính đáng của chúng ta, ít là cách gián tiếp, ví dụ chúng ta chọn những công việc tông đồ, mục vụ hay bác ái có thể là dịp cho chúng ta bị bệnh vì hao tổn sức lực hoặc vì bị lây bệnh; một người vì bác ái mà liều mạng để cứu sống một kẻ lâm nguy như sắp bị chết đuối hay chết cháy, thì đó là họ chọn cuộc sống vắn thay vì cuộc sống dài. Chúng ta có những tấm gương như thánh Konbê trong thời Ðức Quốc Xã của Hitler, đã tự nguyện chết thay cho một người bạn tù; thánh Lu-y Gonzaga do chăm sóc những người mắc bệnh dịch mà lây bệnh và chết, và chết lúc mới hai mươi ba xuân xanh.
Câu trích dẫn sau cùng này tiếp tục giải thích và bổ sung ý niệm dửng dưng. Theo giải thích, ý niệm dửng dưng phải dính liền với ý niệm chọn lựa: nói dửng dưng là nói dửng dưng để có thể có sự chọn lựa thích đáng; và sự chọn lựa thích đáng cốt ở chọn lựa cái đưa chúng ta hơn tới cứu cánh đời người của chúng ta. Như vậy, trên bình diện tự nhiên thì đây là sự chọn lựa khách quan và hợp lý; trên bình diện siêu nhiên thì là sự chọn lựa trong đức tin và cả trong đức mến, vì là sự chọn lựa nhằm mục đích tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa. Ðiều cũng rất rõ ràng là con người sống theo tinh thần của bài Nguyên lý và Nền tảng, không phải là con người diệt dục hay diệt ước vọng, nhưng là con người đầy ước vọng, và là ước vọng cao xa vì họ mong ước cái tốt hơn trong những cái tốt giúp họ theo đuổi cùng đích đời người. Sự dửng dưng của họ chính là biểu hiện sự tự do của họ, sự tự do hiểu như là khả năng thánh thiện: họ không chịu để cho mình bị ràng buộc vào các vật thụ tạo để do đó họ có thể tiến tới hoặc vươn mình lên cái cao đẹp và lên cái cao đẹp hơn trong những cái cao đẹp, họ thắng được những tình cảm và những xu hướng không phù hợp với lý trí được đức tin soi dẫn. Nhờ có sự dửng dưng này mới biết chọn điều họ phải làm cho Ðức Kitô (bài suy niệm về tội, phần tâm sự: s. 53,2); họ mới có thể sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi của Ðức Kitô để đi theo Ngài (bài Vương Quốc).
Nên để ý đến sự nhấn mạnh được diễn đạt qua từ chỉ: chỉ ước ao và chọn lựa. Từ hơn cũng mang một trọng lượng đặc biệt trong câu: "Ước ao và chọn lựa cái gì dẫn đưa chúng ta hơn tới cứu cánh." Nó minh nhiên hóa để nhấn mạnh ý niệm chọn, vì chính ra ý niệm chọn đã bao hàm ý niệm hơn: như đã nói, chọn ở đây không phải là chọn giữa cái bị cấm đoán và cái không bị cấm đoán, nhưng là chọn cái hơn, tức cái nào tốt hơn trong những cái không bị cấm đoán, trong những cái giúp theo đuổi cứu cánh đời người. Chính từ hơn dùng chỉ sự so sánh (hơn và kém), đã hàm ý rằng những cái được so sánh với nhau là những cái chỉ khác nhau về cấp độ. Nhưng cũng nên phân biệt cái hơn khách quan với cái hơn chủ quan; cả hai không riêng, có nhu cầu tâm lý riêng, có tình trạng sức khỏe riêng, có những hoàn cảnh xã hội riêng, v.v...
Như đã nói trên kia, từ câu: "Ðiều cần chúng ta làm cho mình trở nên dửng dưng" cho tới hết, bài suy tư dùng từ chúng ta thay vì con người nói trống. Chúng ta có thể dùng từ chúng ta trong câu trích dẫn này làm cái mốc phân chia bài suy tư thành hai phần, và câu trích dẫn này là mở đầu của phần hai. Vậy bây giờ chúng ta còn có quyền nói rõ hơn rằng phần hai đi xa hơn phần một bằng sự chuyển sang một hướng mới. Thực tế, nếu bảo rằng con người được dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa và để do đó mà cứu linh hồn mình, và các vật thụ tạo giữ vai trò giúp con người trong việc họ theo đuổi cùng đích đời họ, thì hệ luận được rút ra từ khẳng định này, là con người dùng những vật thụ tạo nào giúp cho việc theo đuổi cùng đích của mình, và gạt bỏ những vật thụ tạo nào ngăn cản sự theo đuổi cùng đích đó. Và đây chính là ý tưởng của phần một của bài suy tư. Vẫn theo hệ luận này, giữa những vật thụ tạo "không bị ngăn cấm", tức không ngăn cản việc theo đuổi cùng đích, con người muốn dùng cái nào là tùy ý. Nhưng phần thứ hai không theo lý luận này khi đưa ra ý niệm dửng dưng liên quan đến vấn đề chọn lựa và khi đưa ra vấn đề chọn lựa cái giúp con người hơn. Việc chọn lựa cái giúp hơn, không phải là điều bắt buộc, ít là theo nghĩa chặt, như thấy rõ: ở phần một, bài suy tư nói rằng con người phải cởi bỏ cái ngăn cản họ theo đuổi cùng đích đời mình, còn ở phần hai, bài suy tư nói là chúng ta ước ao. Chính việc chọn cái giúp hơn này là điều thuộc tinh thần của Linh Thao, và đó cũng có thể là một trong những lý do tại sao từ phần hai trở đi bài suy tư thay vì từ con người thì dùng từ chúng ta để gợi ý rằng ở đây nói cách riêng về người làm Linh Thao.
Về mối quan hệ của con người đối với các vật thụ tạo, vấn đề này sẽ được đề cập sâu rộng và theo một hướng mới trong bài Chiêm niệm để đạt được tình yêu. Thực vậy, khi nói các vật thụ tạo được dựng nên cho con người, thì hàm ý chúng là những ân huệ của Thiên Chúa; nhưng vấn đề ân huệ này sẽ được dành cho bài Chiêm niệm để đạt được tình yêu, còn bài Nguyên lý và Nền tảng nhắm vấn đề thái độ và sự ứng xử của con người trong quan hệ đối với các vật thụ tạo trong hành trình theo đuổi cùng đích đời mình. Tuy nhiên, cả hai bài đều có chung một ý tưởng là sự siêu thoát của tâm hồn đối với các vật thụ tạo, một đàng là siêu thoát để theo đuổi cứu cánh siêu nhiên của đời người (bài Nguyên lý và Nền tảng), một đàng là siêu thoát để dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa.
Bài Nguyên lý và Nên tảng chỉ mới nêu ra nguyên tắc tổng quát để người tĩnh tâm theo đó mà bắt đầu cuộc hành trình Linh Thao. Nó là cánh cửa mở ra; các bài suy ngắm trong khóa Linh Thao, cách riêng những bài then chốt Lời hiệu triệu của vua thế tục, Hai lá cờ hiệu, Ba hạng người, Suy tư về ba kiểu khiêm nhường, tất cả thuộc Tuần Hai, sẽ dần dần cho người tĩnh tâm thấy rõ rằng, nói cách chung và ít là xét về mặt khách quan, sự tự ý hoặc vui lòng sống nghèo khó, chịu cực nhọc, chịu khinh chê sỉ nhục, v.v... vì và với Chúa Giêsu, đó chính là chọn con đường Ngài đã đi để theo đuổi cùng đích cuộc đời mình hơn. Bởi đấy, làm những việc hy sinh hoặc hãm mình này nọ đều nằm trong chiều hướng của sự lựa chọn này. Sự lựa chọn có khi còn là một hành vi anh hùng, như chúng ta đọc thấy trong truyện các thánh trường hợp những vị tự nguyện khước từ danh giá, địa vị, giàu sang để sống cuộc đời sống yên thân nhàn hạ để dấn mình vào lao khổ, cực nhọc, nguy hiểm. v.v... vì mục đích tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa.
Tóm lại, người tĩnh tâm bắt đầu khóa Linh Thao bằng một cái nhìn hết sức bao quát: họ nhìn vào các vật thụ tạo trong vũ trụ bao la này, họ nhìn lên Thiên Chúa trong cõi vô biên; và họ định vị mình trong cả hai thế giới vô hình và hữu hình. Từ cái vị trí của mình mà họ đã nhận ra, họ suy gẫm này đưa họ tới sự suy gẫm về mối quan hệ của mình với vạn vật mà họ đã nhận thấy chúng nằm trong quan hệ với Thiên Chúa (chúng được Thiên Chúa dựng nên cho họ).
* * *
Bài Nguyên lý và Nền tảng không giải thích tại sao nó lại mang nhan đề này. Tuy nhiên, qua những điều đã trình bày, chúng ta có quyền bảo rằng việc phải theo đuổi cứu cánh siêu nhiên mà bài này nêu ra, và việc phải sử dụng các vật thụ tạo cho phù hợp với sự theo đuổi cứu cánh đó, đó chính là nguyên lý soi dẫn mọi người nói chung và cách riêng người tĩnh tâm trong cuộc hành trình Linh Thao và cả trong trọn cuộc đời thiêng liêng của họ; và sống theo nguyên lý này là sống trên nền tảng vững chắc. Bởi đấy bài Nguyên lý và Nền tảng được giới thiệu cho người tĩnh tâm để họ dùng làm đề tài suy nghĩ kỷ nhằm chuẩn bị tâm hồn cách tổng quát trước khi làm các bài tập, tức các bài suy ngắm, của các Tuần.
Riêng về ý nghĩa của nhan đề bài suy tư, La Palma (năm 1629) giải thích: gọi là nguyên lý, bởi vì trong đó chứa đựng tất cả những kết luận sẽ được nêu rõ sau; gọi là nền tảng, bởi vì toàn thể tòa nhà của đời sống thiêng liêng tựa trên nó. Lời giải thích này có cơ sở vững chắc và nói chung nó được nhiều người tán đồng.
- Phải chăng tôi đã ghi xương khắc cốt sự thật này làm thành nguyên lý và nền tảng cho cuộc đời tôi, là tôi sinh ra và sống ở trần gian này để tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và để nhờ vậy tôi đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau!
- Tôi đã tán duong, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa như thế nào trong cuộc đời tôi bằng cách sống, bằng lời nói, bằng việc làm?
- Tôi còn phải sửa lại điều gì hoặc phải làm gì hơn để chu toàn nhiệm vụ trên?
- Tôi có lấy việc tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi lựa chọn của tôi trong cuộc đời, từ lựa chọn bậc sống hay lối sống cho tới chọn thủ đắc và sử dụng vật này vật nọ?
- Trong thực tế, khi phải lựa chọn giữa các vật thụ tạo, tôi có dửng dưng đủ đối với chúng không, nghĩa là tôi có đủ tự do để không bị chi phối bởi cảm tính hay bởi xu hướng tự nhiên, và để trung thành với chuẩn mực là chỉ ước ao và lựa chọn cái giúp tôi hơn trong việc tôi theo đuổi cứu cánh cuộc đời?
- Ðể chọn những cái hơn trong việc theo đuổi cùng đích cuộc đời, tôi có đủ tinh thần siêu nhiên, đủ tỉnh táo, sáng suốt và can đảm không? Rút cục, tôi có yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự không?