Chân Lý và Tự Do
(Tài Liệu Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành
của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu
Radio Veritas Asia)
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
- 15 -
Vai Trò Giáo Huấn Của Giáo Hội
Thông điệp "Tin Mừng sự sống" của Ðức Gioan Phaolô II, như tựa đề của chính thông điệp gợi lên, là một quảng diễn Thông điệp "Sự sống con người" của Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành năm 1968. Ðức Gioan Phaolô II nói về Thông điệp mới của ngài như một bài suy niệm về sự sống đứng trước một nền văn hóa chết chóc đang lan tràn trên thế giới ngày nay với nạn phá thai, giết người êm dịu. Ðàng sau sự chết chóc mà thời đại văn minh đang cổ võ, người ta thấy có một cái chết khác trầm trọng hơn, đó là cái chết của lương tâm con người. Thật thế, lương tâm con người thời đại xem ra không còn nhạy cảm trước tội ác nữa, lương tâm ấy mù quáng đến độ không còn khả năng để phân biệt thiện với ác. Ðồng hành với con người như một nhà chuyên môn về nhân bản, Giáo Hội không ngừng cảnh tỉnh nhân loại đang đứng bên bờ vực thẳm sa đọa, Giáo Hội đồng hành với nhân loại như những bảng chỉ dẫn trước vô số ngã rẽ.
Ngày nay hơn bao giờ hết, con người không ngừng nại đến quyền tự do lương tâm. Lương tâm là tiếng nói tối hậu mà con người phải tuyệt đối tuân theo. Tuy nhiên, khi nại đến quyền tối thượng của lương tâm, nhiều người hiểu nó như một chuẩn nhận cho bất cứ những gì mình muốn làm. Thật ra, lương tâm thường xuất hiện như một tiếng nói "không" trước những toan tính ích kỷ của con người hơn là một chuẩn nhận về những gì con người muốn làm thì làm. Nếu quyền của lương tâm là quyền tối thượng, thì đó trước tiên phải là quyền được lắng nghe, ngay cả khi lương tâm nói "không". Hơn nữa, không phải tất cả nguồn thông tin chúng ta có thể có để thẩm định về tính cách tốt xấu của hành động đều đến từ lương tâm. Tất cả mọi nguồn thông tin đều phải đi vào lương tâm, nhưng không phải tất cả những gì đến từ lương tâm đều là nguồn thông tin tiên quyết. Chúng ta có một ý thức bẩm sinh về thiện ác, nhưng đây chỉ là một ý thức sơ đẳng. Chúng ta có thể so sánh ý thức ấy với một giác quan đặc biệt nơi một số người về địa lý: họ có thể định hướng một cách dễ dàng hơn người khác; tuy nhiên, họ không tin tưởng nơi mình hoàn toàn, đứng trước một ngã rẽ, theo lẽ thường, họ vẫn cần đến một bản đồ hay một sự hướng dẫn của người chỉ đường.
Ðứng trước những ngã rẽ với chiều quyết định có tính cách luân lý, chúng ta cũng cần phải hành động một cách tương tự. Thật là hợp lý khi chúng ta tham khảo tiếng nói lương tâm, nhưng cũng không kém hợp lý khi bên cạnh lương tâm, chúng ta có một ai đó đáng tin cậy hơn có thể giúp chúng ta quyết định. Không gì thảm hại cho bằng khi chúng ta không tìm thấy một người cố vấn, để rồi cuối cùng đành phải quay lại với lương tâm mà chúng ta nghi ngờ là có thể sai lầm. Ðối với người Kitô hữu, giải pháp thật rõ ràng, chúng ta không đơn độc khi phải quyết định những gì có liên quan đến lãnh vực luân lý. Thiên Chúa ở với chúng ta và Ngài luôn có một điều gì đó để nói với chúng ta khi chúng ta phải lựa chọn. Dĩ nhiên Ngài nói với chúng ta trước tiên qua và trong lương tâm chúng ta, nhưng vì lương tâm không phải là một khả năng vô ngộ nên nhiều khi chúng ta hiểu sai tiếng nói của Chúa. Do đó lắng nghe tiếng nói lương tâm mà thôi chưa đủ, người kitô hữu còn lắng nghe tiếng nói của Chúa trong Kinh Thánh.
Trong Cựu ước, cách riêng trong Thập giới, quả thật Thiên Chúa đã vạch ra những bảng chỉ dẫn an toàn nhất để hướng dẫn đời sống luân lý của con người. Trong Chúa Giêsu Kitô, Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống, Thiên Chúa còn nói rõ với con người về những nguyên tắc cơ bản nhất của đời sống luân lý. Không gì bảo đảm và chắc chắn bằng những nguyên tắc do chính Chúa Kitô vạch ra; không một ý muốn, một quyền lực nào của con người có thể dẹp bỏ những nguyên tắc ấy. Khi Thiên Chúa đã cấm ly dị vì trái ngược với bản chất của hôn phối, thì tất cả mọi thứ thăm dò ý kiến, mọi thứ trưng cầu dân ý, mọi thứ biểu quyết của Quốc Hội cũng không thể xóa bỏ được cấm chỉ ấy của Thiên Chúa. Những cuộc trưng cầu dân ý, những biểu quyết của Quốc Hội có thể hợp pháp hóa những hành động tội ác như phá thai, giết người một cách êm dịu, ly dị, nhưng không thể làm cho luật ấy hợp với luân lý: cho dù có được luật pháp cho phép hay chuẩn y, ly dị, phá thai, giết người cách êm dịu, vẫn mãi mãi là những hành động xấu xét về mặt luân lý.
Thiên Chúa nói với con người qua Kinh Thánh, nhưng xem ra còn nhiều điều Thiên Chúa chưa nói tới trong đó: Thiên Chúa đã không nói đến vấn đề nghiện ngập, vấn đề liên quan đến lãnh vực gia tăng dân số. Phải chăng điều đó có nghĩa là con người được tự do hơn? Biết đâu khi đứng trước một ngã rẽ không tìm ra một bảng chỉ dẫn, chúng ta lại chẳng tự nhủ: thật may mắn, ở đây Thiên Chúa không đặt một bảng chỉ dẫn nào. Ngài không có gì để nói, cho nên tôi được tự do muốn làm gì thì làm. Ðó có thể là lối lý luận của rất nhiều người thời đại, họ tự xưng là kitô hữu, họ lắng nghe tiếng Chúa trong Kinh Thánh, họ tham khảo Kinh Thánh, thế nhưng khi không tìm được một giải pháp cụ thể trong Kinh Thánh, họ qui về tiếng nói lương tâm và tự giải quyết vấn đề của mình.
Thật ra, là người kitô hữu, ai cũng biết rằng Chúa vẫn tiếp tục nói qua Giáo Hội của Ngài. Khi Giáo Hội nhân danh Ðức Kitô để nói, chúng ta được bảo đảm rằng chính Ðức Kitô đang nói với chúng ta. Chúa Giêsu khẳng định: "Ai nghe các con là nghe Ta". Vai trò của Giáo Hội là giúp chúng ta nghe và hiểu được tiếng nói của Chúa. Chân lý của Ðức Kitô không bao giờ thay đổi, nhưng cần được áp dụng vào những hoàn cảnh mới; bản chất và định mệnh của con người không thay đổi, nhưng mỗi thời đại mang lại những hoàn cảnh mới. Ðồng hành với con người qua mỗi giai đoạn lịch sử, Giáo Hội có nhiệm vụ giúp con người lắng nghe và hiểu được tiếng nói của Chúa. Do đó, một lương tâm đúng đắn và ngay lành là một lương tâm luôn cởi mở để đón nhận sự hướng dẫn của Giáo Hội, nhất là trong những vấn đề khúc mắc và phức tạp do thời đại đặt ra mà tự sức mình người kitô hữu không thể tìm được câu giải đáp đúng đắn.