Ngay từ những thế kỷ đầu việc nước được đem thảo luận trong dân Israel. Có những đàn ông, đàn bà, phía bắc cũng như phía nam của xứ này, có thể giúp ý vua khi vua có những quyết định quan trọng. Họ can ngăn vua khi họ nghĩ là vua sai lầm. Họ có can đảm để nói trực tiếp về lỗi lầm của nhà vua.
Người ta gọi các ông các bà này là "ngôn sứ". Họ tự giới thiệu mình là phát ngôn của Thiên Chúa. Không phải họ tự ý mình mà nói, nhưng bởi vì Chúa đã bảo họ.
Một vài vị ngôn sứ giải thích cho hay bằng cách nào Chúa đã gọi họ để lên tiếng nhân danh Ngài.
Chẳng hạn như bản văn được ngôn sứ Isaia viết lại vào khoảng năm 700 trước Chúa Giêsu Kitô.
Vào năm vua Ôdiát băng hà, tôi đã thấy Chúa trong một kiến thị. Ngài ngồi trên ngai rất cao và các vạt áo Ngài phủ lên Ðền Thánh. Các thiên thần Sêraphim đứng cạnh Ngài. Họ hát vang cùng nhau những lời này: "Thánh, thánh, thánh, Chúa là Chúa vũ trụ, toàn thể trái đất đầy vinh quang Ngài!"
Nghe tiếng đó các cánh cửa rung chuyển và tòa nhà phủ đầy khói. Tôi thưa:
"Khốn cho tôi! Tôi
chết mất thôi,
vì tôi là một người môi
miệng dơ bẩn,
tôi ở giữa một dân tộc
có môi miệng dơ bẩn,
và mắt tôi đã thấy vua, Chúa
của vũ trụ".
Một trong các thiên thần Sêraphim bay đến phía tôi, lấy than lửa ở bàn thờ kẹp bỏ vào môi tôi và nói:
"Này, lửa này
đã đụng đến môi ngươi;
miệng ngươi không còn ô uế,
tôi ngươi được xóa sạch".
Tôi liền nghe tiếng Chúa phán cùng tôi:
"Ta sẽ sai ai? Ai sẽ là sứ giả của Ta?"
Tôi thưa:
"Con đây, Ngài có thể sai con".
(IS 6,1-8)
Trong bản văn này Isaia nhận rằng mình không đáng là ngôn sứ. Có khảong cách quá lớn giữa Thiên Chúa và con người!
Chính Chúa làm cho khoảng cách đó không còn và cho ngôn sứ có quyền nói thay Ngài.
Các ngôn sứ phải hết sức can đảm, nhất là khi phải tố giác những điều chướng tai cho chính vua nghe. Như ngôn sứ Natan đã phải lên án vua Ðavid sau khi vua ngoại tình với Bétxabê và cho ám sát Uri. Như ngôn sứ Êlia hoàn thành sứ mạng đặc biệt khó khăn khi đối đầu với Asát.
Nabốt thuộc nhà Gítrêen có một vườn nho, cạnh vương cung Asát, vua xứ Samaria. Asát đề nghị với Nabốt:
"Hãy để lại cho ta vườn nho của ngươi để ta biến nó thành vườn cây ăn trái của ta, phải chăng nó ở cạnh vương cung của ta; ta sẽ đổi cho ngươi một vườn nho tốt hơn hoặc nếu ngươi muốn ta trả tiền đúng theo giá của nó".
Nhưng Nabốt nói với Asát:
"Vì Chúa ngăn không cho tôi trao cho ai cơ nghiệp tôi đã lãnh nhận từ tổ tiên tôi!"
Asát trở về cung, bực tức vì Nabốt nhà Gítrêen đã từ chối trao cho ông mảnh vườn, là gia nghiệp của tô tiên ông ta.
Ông đi nằm, quay mặt vào tường và không màng ăn uống gì. Vợ vua là Gêdaben đến cạnh vua và thưa:
"Sao ngài có vẻ bực tức và không muốn ăn uống gì cả?"
Asát kể cho vợ nghe chuyện đã xảy ra. Bấy giờ Gêdaben liền bàn:
"Phải chăng ngài là vua của Israel! Xin ngài đứng dậy dùng bữa và cứ yên tâm. Thiếp sẽ có cách lấy vườn nho của Nabốt cho ngài".
Gêdaben liền thay mặt Asát viết thư, đóng triện nhà vua. Bà gởi thư này cho các thủ lãnh và đầu mục thành phố nơi Nabốt cư ngụ. Bà viết thế này: "Các ngươi tổ chức một buổi lễ ăn chay và yêu cầu Nabốt trình diện trước mọi người. Các ông đưa hai tên vô loại đến đối diện vối ông ta để tố cáo Nabốt như sau: "Nhà ngươi nhục mạ Thiên Chúa và nhà vua!" Các ông dẫn hắn ta ra ngoài và đôi đá cho chết".
Các thủ lãnh và đầu mục thành phố tuân theo chỉ thị của Gêdaben đã viết trong thư gởi đến họ. Sau đó họ báo cho Gêdaben:
"Nabốt đã bị ném đá chết rồi".
Khi Gêdaben hay tin Nabốt đã chết liền thưa với Asát:
"Ngồi dậy đi. Ngài có thể làm chủ vườn nho của Nabốt rồi đó, vì Nabốt không còn sống nữa, hắn đã chết rồi".
Asát chổi dậy đến vườn nho của Nabốt để làm chủ.
Bấy giờ Êlia, từ Tíchbê, nhận lệnh của Chúa:
"Ngươi hãy đi gặp Asát, vua của Israel đang ở Samaria. Vua đang đến dành vườn nho của Nabốt. Ngươi nói với vua điều này: "Này Chúa phán: Ngay nơi mà chó đang liếm máu của Nabốt, thì cũng nơi đó chó sẽ liếm chính máu ngươi".
Asát nói lại với Êlia:
"Nhà ngươi lại tìm ta, ngươi là kẻ thù của ta!"
Êlia trả lời: "Tôi tìm ngài vì ngài gian ác; ngài đã xử sự trái với ý Chúa. Vì thế tôi sẽ gởi hoạn nạn đến trên ngài. Ngài sẽ không có con nối dòng; tôi sẽ làm cho toàn nhà ngài không ai sống sót. Vì ngài làm tôi phải nổi giận và đã đẩy đưa Israel vào đường tội lỗi, tôi sẽ xử đối với gia đình ngài như đã từng xử đối với gia đình Giêrôbôam, con của Nêbát, và gia đình Bátxa, con Abida. Mọi người trong nhà Asát chết trong thành thì bị chó ăn, chết ngoài đồng thì chim rỉa. Và đây là lời Chúa báo cho Gêdaben: "Chó sẽ xé xác Gêdaben gần tường nhà Gítrêen".
Khi Asát nghe những lời dọa nạt đó, thì liền xé áo mình ra, mặc bao vải lên mình và ăn chay. Ông mang bao vải đó mà ngủ. Ông đi đứng chậm rãi. Bấy giờ Chúa nói với Êlia xứ Tíchbê:
"Nhà ngươi có thấy Asát hạ mình đối với Ta không? Vì nó tỏ ra khiêm tốn, Ta sẽ không gieo họa trong những ngày nó còn sống. Ðến thời con nó Ta sẽ đổ hoạn nạn xuống nhà nó".
(2 CV 21,1-29)
Sứ điệp của một ngôn sứ đã được chép lại. Những ngôn sứ này không phải chỉ nói với vua, mà còn nói với toàn dân. Họ hay loan báo những hoạn nạn như là kết quả của cuộc sống đồi trụy của người ta.
Các ngôn sứ có sứ mạng lưu ý người thành tín khi các giới răn của Chúa không còn được người ta tôn trọng. Các ngài tố cáo sự thiếu tin tưởng, bất công và dối trá.
Ngôn sứ Amót (năm 750 trước Chúa Giêsu Kitô) sống vào một thời thái hòa của dân Israel, giàu có và an bình. Nhưng sự giàu có và an cư đã được chia sẻ một cách công bằng.
Theo lời Chúa dạy, Amót lên tiếng bênh vực người nghèo. Ông cho hay những kẻ tạo ra sự nghèo khốn nầy sẽ bị phạt.
Khốn cho những ai thay đổi
các luật pháp
và biến chúng thành cay nghiệt như
dấm đắng,
những ai chà đạp công lý
xuống đất.
Chúng ghét bỏ những người
đề cao pháp luật ở tòa
án,
chúng không ưa người nói
sự thật.
Vì các ngươi áp bức kẻ
yếu hèn,
và vì các ngươi bắt họ
phải chịu thuế đánh vào lúa
mì,
các ngươi sẽ không cư ngụ
được nơi căn nhà
mà các ngươi từng xây bằng
đá tảng,
các ngươi sẽ không uống được
rượu
của vườn nho các ngươi trồng.
ta biết tội các ngươi
và vô số lỗi các ngươi
phạm.
các ngươi đày đọa trẻ
thơ trong cảnh khốn cùng,
các ngươi tham lam,
coi rẽ quyền lợi của kẻ nghèo
trước tòa án
(và vì thế ai khôn hồn thì
đành câm nín,
vì biết rằng nói lên lúc
này là nguy hiểm).
Các ngươi hãy làm việc thiện,
tránh việc ác,
và các ngươi sẽ được
sống,
và Chúa là Thiên Chúa sẽ
ở với các ngươi.
Hãy bỏ điều gian ác, hãy
yêu việc thiện,
hãy làm cho công lý hiện diện
nơi tòa án.
Như thế có thể Chúa là Thiên
Chúa của toàn vũ trụ
sẽ thương tình số còn lại
của hậu duệ nhà Giuse?
(Am 5,7.10-15)
Khốn cho ai sống thoải
mái ở Sion,
sống an nhiên tự tại trên núi
Samaria.
Khốn cho các đầu mục của dân
trên các dân,
các kẻ đúng ra phải làm gương
cho dân Israel.
Chúng nằm trên giường ngà,
sải bụng trên các ghế dài sang
trọng,
ăn thịt cừu hảo hạng
và bò tơ béo bắt trong chuồng;
các ngươi ngâm nga đàn ca xướng
hát,
bày đủ thứ dụng cụ âm
nhạc như Ðavid,
các ngươi uống rượu trong bình
thật lớn,
xức đủ loại nước hoa,
mà không lo đến vận mạng của
dân ta!
Vì thế các ngươi sẽ thấy
tại sao các ngươi là những
kẻ đầu tiên bị đi đày
ải,
cuộc vui của kẻ ươn hèn chấm
dứt!
Chúa là Thiên Chúa đã thề
là sẽ làm điều đó,
Chúa là Chúa vũ trụ đã
phán ra;
Ta ghê tởm cảnh xa hoa của Giacóp,
Ta ghét bỏ các lầu đài của
nó,
và Ta sẽ trao vào tay quân thù thành
phố và của cải trong đó.
(Am 6,1.4-8)
Các ngươi hãy nghe lời ta nói đây, các ngươi là những người đàn áp kẻ nghèo và muốn những kẻ bé nhỏ trong xứ phải bị tiêu diệt.
Các ngươi nói: "Mong sao các ngày lễ đầu tuần trăng qua đi để chúng ta có thể bán lúa mì, và mong sao ngày lễ Sabát sớm chấm dứt để chúng ta có thể mở kho lúa! Chúng ta có thể sửa đấu đo, tăng giá và cân sai. Và như thế là có thể mua đứt người nghèo bằng tiền, và đổi kẻ khốn cùng với giá một đôi dép; chúng ta có thể bán đến tận hạt trấu cũng không chừa". Chúa thề sẽ không bao giờ quên việc các ngươi làm.
(Am 8,4-7)
Sứ điệp của Amót thật rõ ràng: Chúa không chấp nhận việc luật pháp và công lý bị chà đạp. Ai bất tuân giới răn Chúa sẽ bị Chúa phán xét.
Amót cảnh cáo rõ ràng: Không ai có thể thoát khỏi việc phán xét này. Hình phạt của Thiên Chúa xem ra không thể tránh được.
Này đây Chúa cho tôi thấy một thị kiến: Tôi đã thấy một giỏ đựng đầy trái cây chín. Ngài bảo tôi: "Amót, ngươi thấy gì?" Tôi liền thưa: "Một giỏ đầy trái chín". Bấy giờ Chúa phán cùng tôi: "Dân Ta đã chín mùi, giờ đã điểm; bây giờ Ta không tha cho chúng nữa. Ngày đó các kỷ nữ ca hát sẽ than khóc, lời Chúa phán như thế. Xác chết chất đầy, và khắp nơi đều xảy ra như thế. Bấy giờ chỉ còn thinh lặng mà thôi!"
(Am 8,1-3)
Sứ ngôn Isaia cũng từng tố cáo bất công và cho hay về việc Chúa đe dọa phán xét. Ông lên án những tầng lớp cai trị.
Hỡi dân ta,
những kẻ cai trị ngươi đang
nghiền nát ngươi,
những thứ tham lam đang thống
trị ngươi.
Hỡi dân ta, các thủ lãnh ngươi
làm người lầm lạc,
và dẫn ngươi trên nẻo đường
sai trái.
Chúa sẽ đích thân xét xử
dân Ngài,
Ngài sẽ lên tiếng kết án
nó.
Chúa kết án xử
những người cai trị và vua
chúa của dân Ngài:
"Chính các ngươi đã phá
vườn nho Ta,
và nhà các ngươi chất đầy
của cải các ngươi đã ăn
cắp người nghèo.
Các ngươi lấy quyền gì chà
đạp dân Ta,
và dám nghiền nát người
nghèo?"
Ðó là lời Chúa, Thiên
Chúa toàn vũ trụ.
(Is 3,12-15)
Chúa từ chối lễ vật và kinh nguyện của dân Ngài, vì người ta không sống chung được với nhau và bất công gia tăng tràn ngập. Thờ phượng Chúa và phục vụ anh em phải đi đôi với nhau; quên một trong hai, các việc làm không có giá trị gì.
Hỡi những kẻ
làm thủ lãnh Sôđôma,
hãy nghe lời Chúa,
hãy học biết lời Chúa chúng
ta chỉ dạy,
hỡi dân Gômôrê!
Chúa phán, Ta không cần đến
lễ vật của các ngươi,
Ta không thèm đến các lễ
vật toàn thiêu
bằng lừa và mỡ bò.
Máu bò, chiên dê làm Ta ghê
tởm.
Các ngươi đến trước
nhan Ta làm gì?
Ai mời các ngươi đến trong
các sân Ðền Thánh Ta?
hãy chấm dứt việc mang lễ vật
vô ích:
Ta ghét khói hương của chúng.
Nào lễ đầu tuần trăng, Sabát,
hội họp...
Ta không chịu nổi các ngày lễ
lạc của các ngươi.
Những lễ đầu tuần trăng
và các cuộc thánh du,
Ta ghê tởm chúng.
Ðó là gánh nặng cho Ta
và Ta mệt nhọc vì phải chịu đựng
chúng!
Khi các ngươi giang tay lên Ta cầu nguyện,
Ta quay mặt,
các ngươi có mãi cầu xin, Ta
không màng nghe.
Tay các ngươi đầy máu. hãy
đi rửa và thanh tẩy.
Hãy vất bỏ nỗi gian ác trên
mình các ngươi,
đừng làm bẩn mắt Ta.
hãy ngưng làm ác,
và cố học làm việc thiện,
hãy tìm kiếm công chính,
hãy cứ giúp kẻ bị áp
bức,
hãy công bằng với kẻ mồ
côi,
và bảo vệ bà góa.
(Is 1,10-17)
Isaia rất lưu ý đến các quyết định chính trị trong triều vua. Ông nhận thấy các người điều khiển dân chúng chỉ lưu ý đến khía cạnh con người. Những người điều khiển này không lưu ý đến ý của Thiên Chúa. Họ quên rằng chỉ có Chúa mới cứu giúp được họ.
Ðấy là dân bội
phản,
gồm toàn lũ láo khoét,
không muốn nghe lời Chúa dạy.
Họ nói với kẻ có thị
kiến: "Chớ có thị kiến
gì nữa",
và với các ngôn sứ:
"Ðừng nói sự thật cho
chúng tôi nghe nữa;
các ngươi hãy nói những
điều dễ nghe,
hãy kể lại những giấc mơ
ca tụng chúng tôi.
Hãy đi nơi khác, hãy xa lánh
chúng tôi,
đừng nhắc chúng tôi mãi
ở trước mặt Chúa,
Ðấng Thánh của Israel".
Vì thế, này đây là lời
Ðấng Thánh Israel phán dạy:
"Vì các ngươi vứt bỏ
lời cảnh giác này,
và chỉ tin vào lời láo khoét
gian trá,
lỗi các ngươi như một mảng
lớn lù lù
nằm trên thành lũy,
đột nhiên sụt xuống ập trên
các ngươi,
như bình sứ vỡ tan tành
nghìn mảnh,
đến độ không còn một miếng
nhỏ nào
có thể đựng được
chút nước trong vũng!"
Ðấy là lời Chúa Thiên
Chúa, Ðấng Thánh Israel.
Các ngươi sẽ tìm được
ơn cứu độ
khi trở lại với Ta và chịu
ở yên,
các ngươi sẽ lấy lại sức
lực
khi không còn múa máy, và tin vào
Ta.
Nhưng các ngươi lại không muốn!
(Is 30,9-15)
Tuy vậy, ngôn sứ loan báo sự nhân hậu của Thiên Chúa. Tình yêu của Chúa ở trên hết mọi sự. Chúa không thể bỏ dân Ngài. Một tương lai mới có thể mở ra. Ơn cứu độ cho dân Israel sẽ bắt đầu với một vị vua mới.
Một cành sẽ đâm
chồi từ cây già Giétxê,
một chồi non sẽ vươn lên từ
rễ của nó.
Thần khí của Chúa luôn ở
trên người đó,
Thần Khí ban khôn ngoan và thông thái,
cẩn trọng và can cường,
hiểu biết và kính sợ Thiên
Chúa.
Người sẽ kính trọng Thiên
Chúa.
Người sẽ không phán xét
dựa vào hoàn cảnh bên ngoài,
Người sẽ không quyết định
gì theo lời người ta đồn
đãi;
nhưng người sẽ phán xử
kẻ yếu kém trong công chính,
người làm cho luật pháp được
tôn trọng
đối với những dân nghèo
trong xứ.
Người sẽ đuổi kẻ bạo
tàn bằng lời nói,
và lấy hơi thở chấm dứt
kẻ gian ác.
Sự công chính sẽ như giây
lưng ràng buộc quanh hông,
sự chính trực cuộn lấy quanh
mình người.
Bấy giờ sói sống chung với
cừu,
báo ngủ gần dê tơ;
bò non và sư tử cùng ở
chung;
sư tử cũng như bò sẽ gặm
rơm;
trẻ thơ vui đùa bên hang rắn,
trong chỗ rắn nằm, trẻ nhỏ có
thể thò tay.
Sẽ không còn sự ác, và
tai vạ
trên núi thánh của Ta,
vì xứ sở sẽ đầy
sự hiểu biết Thiên Chúa,
như nước gặp lại đáy
biển sâu.
(Is 11,1-9)
Vị vua đó cũng gọi là Ðấng Thiên Sai. Ngài sẽ lo thực hiện sự công chính của Thiên Chúa trong cách sống và hành vi của Ngài.
Ngôn sứ Giêrêmia nhân danh Thiên Chúa loan báo lời hứa ban một vị kế nghiệp Ðavid, vị này mở ngỏ giúp con người đến ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Chúa phán,
sẽ có ngày
Ta cho Ðavid một kẻ nối nghiệp;
đó sẽ là vị vua khôn ngoan
cai trị xứ sỏ bằng luật và
công lý.
trong triều đại Người, Giuđa
sẽ được cứu độ,
Israel sẽ sống an bình.
Và đây là tên mà người
ta gọi Người:
"Chúa sự công chính của chúng
ta".
(Giêr 23,5-6)
Sứ điệp của Isaia đem lại an bình và hy vọng cho dân Israel. Tương lai ở trong tay Chúa; đó là một lý do khiến con người hoan hỉ.
Ước gì sa mạc
và đất khô cằn hãy hoan hỉ,
đồng khô có thể vui mừng
vì có hoa phủ,
như cành cẩm chướng, nó
sẽ nở hoa.
Nó sẽ nhảy mừng và lớn
tiếng hòa ca.
Cảnh hùng vĩ xứ Libăng,
diễm kiều của núi Cátminh
và đồng bằng Sarông tất cả
sẽ được ban cho nó.
Bấy giờ người ta sẽ chứng
kiến vinh quang Thiên Chúa,
sự huy hoàng của Chúa chúng ta.
Hãy giữ cho tay mõi mệt cương
cường lên,
hãy làm cho đầu gối rã rời
đứng vững.
Hãy nói với những ai tâm
can đầy lo lắng:
"Can đảm lên, chớ sợ!
Này Chúa các ngươi!
Ngài đến báo thù cho các
ngươi và thưởng các ngươi;
Ngài đích thân đến cứu
chúng ta".
Bấy giờ mắt người mù
sẽ bắt đầu thấy,
tai người điếc sẽ mở
ra;
bấy giờ người què nhảy
nhót như nai,
và người câm sẽ hét lên
vui mừng,
vì nước sẽ tuôn ra từ
sa mạc,
và các suối chảy trong đồng
khô.
Ðất khô sẽ trở thành
hồ,
và xứ hạn hán sẽ đầy
suối nước.
Trong hang sói,
cây lau, cây sậy mọc lên.
Sẽ có một con đường ở
đó,
được gọi là thánh đạo.
Ai không trong sạch sẽ không đi qua
được,
kẻ điên rồ không được
vảng lai.
Không còn thấy có sư tử,
một dã thú nào nhảy nhót nơi
đây.
Ðó chính là nơi đi lại
của những ai Chúa đã cứu
chuộc,
là nơi lai vãng của kẻ đã
được Chúa cứu thoát.
Họ sẽ đến Sion với những
bài ca khải hoàn,
một niềm vui tràn trề làm rạng
rỡ khuôn mặt họ,
một niềm vui tràn ngập tâm hồn,
bấy giờ ưu sầu và phiền
não sẽ biến tan.
(IS 35)