Tính Luân Lý Của Việc Tạo Sinh

Phó Tế Nguyễn Văn Tâm, DCCT

 

Prepare for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 


 

Chương III: Một Số Vấn Nạn (Tiếp Theo)

II. Có Ðược Phép Tạo Phôi Thai Ðể Dùng

Như Là Phương Pháp Trị Liệu Không?

 

1. Khám phá của khoa học về lợi ích của tế bào gốc

a. Tế bào gốc là gì ?

Tế bào gốc là tế bào có khả năng phân chia vô hạn định và có khả năng sinh sản và tạo nên các tế bào khác có những chức năng chuyên biệt, một khi nó được cấy vào một môi trường thích hợp. Ðể cho chúng ta có một khái niệm cụ thể về các chức năng của tế bào gốc, điều tốt nhất là chúng ta thử khảo-sát chúng trong các tiến trình phát triển nơi con người được bắt đầu khi tinh trùng làm cho trứng (noãn) thụ tinh, và sau đó tạo nên một tế bào duy nhất, gọi là hợp tử, tế bào này có khả năng tự phát triển thành một cơ thể (organism).

Vì thế, trứng thụ tinh (hợp tử) còn được coi như là tế bào toàn năng. Sau khi trứng đã được thụ tinh, chỉ khoảng từ 4 - 6 tiếng đồng hồ sau, hợp tử sẽ tự động phân chia thành nhiều tế bào toàn năng (totipotent cells), đồng chất thể về mặt di truyền. Vì lý do đó, giả sử ta lấy một tế bào toàn năng (đã được phân chia sau khi trứng đã thụ tinh) đem cấy vào vách tử cung của người phụ nữ (nếu thành công) thì tế bào này có khả năng phát triển thành bào thai. Từ đó, ta có thể giải thích hiện tượng sinh đôi, là một trứng sau khi đã thụ tinh, tự phân chia làm 2 tế bào toàn năng riêng biệt và rồi sau đó sẽ tự phát triển thành 2 cá thể riêng rẽ. Do đó, xét về mặt di truyền thì trẻ em sinh đôi có cùng chung một gien y hệt như nhau.

hinh 1

Khoảng 4 ngày, sau khi trứng đã thụ tinh, hợp tử sẽ trải qua nhiều chu kỳ phân chia tế bào, gọi là hiện tượng nhân đôi: từ 1 tế bào duy nhất thành 2, rồi 2 thành 4, rồi 4 thành 8 và 8 thành 16 v.v... Những tế bào toàn-năng sau khi đã được phân ra, lần lượt sẽ tạo nên các tế bào khác, gọi là phôi bào. Ở phía bên ngoài phôi bào có các lớp tế bào, còn bên trong thì là một khoảng rỗng, bao gồm vô số các lớp tế bào khác, gọi là "khối tế bào nội tại". Các tế bào nội tại này sẽ thiết lập hầu hết các mô (tissues) của thân thể. Mặc dầu các tế bào nội tại có thể tạo thành, dường như, tất cả các loại tế bào nơi thân thể con người, nhưng chúng lại không có khả năng để tạo thành một cơ thể (organism).

Các tế bào nội tại được coi như là các tế bào đa năng, vì chúng có khả năng trợ giúp nhiều loại tế bào khác nhau. Các tế bào nội tại có tính đa năng, tuy nhiên, chúng không phải là các tế bào toàn năng, vì lý do đó, chúng không thể tạo nên một cơ thể, như các tế bào toàn năng, ví dụ như tế bào hợp tử.

Những tế bào gốc đa năng (Pluripotent stem cells) tiếp tục trải qua nhiều sự phân hóa để trở thành những tế bào gốc với chiều hướng nhằm yểm trợ các tế bào mà chúng có những chức năng hoặc phận vụ chuyên biệt. Chẳng hạn như tế bào gốc của máu (Blood stem cells), thì trợ giúp các hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. Các tế bào gốc của máu hiện diện trong tủy (của xương - bone marrow) của trẻ em cũng như người lớn, thực vậy, chúng có thể tìm thấy trong máu hiện đang lưu thông nơi các huyết quản. Tế bào gốc của máu nắm giữ một vài trò rất quan trọng, trong công việc cung cấp cho đủ số tế bào máu trong thân thể con người, suốt cả cuộc đời. Các tế bào máu thì gồm có: hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. Chúng ta không thể sống sót nếu không có các tế bào gốc của máu.

b. Tế bào gốc lấy từ đâu ra ?

Hiện nay có 2 phương pháp để có thể lấy được các tế bào gốc đa năng.

Cách thứ nhất được thực hiện do Dr. James Thomson, thuộc đại học Wisconsin - Hoa Kỳ.

Các tế bào gốc đa năng được tách rời trực tiếp từ các tế bào nội tại của phôi trong giai đoạn phôi bào (blastocyst). Sau đó đem cấy chúng vào một môi trường thích hợp, với những điều kiện thiết yếu cho việc phát triển, dần dần chúng sẽ sản xuất một loại tế bào gốc đa năng.

Cách thứ hai được thực hiện do Dr. Gearhart.

Ông ta tách biệt các tế bào gốc đa năng từ các mô của bào thai đã được hủy, vì không muốn tiếp tục cưu mang hoặc vì những lý do khác. Ðiều này được thực hiện với sự đồng ý của chủ nhân bào thai và vị bác sĩ có trách nhiệm. Ông ta chọn những tế bào thuộc các vùng của bào thai mà biết chắc chắn rằng sau này, chúng sẽ phát triển thành tinh hoàn hoặc buồng trứng.

Mặc dầu có sự khác biệt về hai nguồn cung cấp chất liệu để tạo nên các tế bào gốc đa năng. Tuy nhiên, kết quả của việc hình thành các tế bào gốc này rất giống nhau.

Một loại tế bào gốc nữa, có tên là "Multipotent Stem Cells", có thể tìm thấy ở một vài loại mô trưởng thành (Adult tissues). Tuy nhiên gần đây, có nhiều dấu chỉ khả quan cho thấy, các chuyên gia nghiên cứu có thể tìm thấy thêm nhiều loại tế bào gốc hiện diện trong các mô trưởng thành. Chẳng hạn như trước đây, các chuyên gia nghiên cứu nghĩ rằng: các tế bào gốc dường như không có ở trong hệ thống thần kinh.

Nhưng những năm gần đây, họ đã khám phá ra và họ đã làm các cuộc thí nghiệm và cho thấy là họ có thể tách rời các tế bào gốc thuộc thần kinh (Neuronal Stem Cells) ra khỏi hệ thống thần kinh của các chú chuột. Ngược lại, nơi con người, các tế bào gốc loại này, nếu muốn thâu hoạch, thì hiện nay chỉ có thể lấy từ các mô của bào thai (fetal tissues). Hẳn nhiên, việc thử nghiệm này đối với con người thì còn rất ư là hạn chế. Tuy nhiên, điều ấy cho thấy là có những dấu chỉ khả thi rằng: không bao lâu nữa thì việc này có thể được áp dụng đối với con người.

c. Những lợi ích khả thể trong công trình nghiên cứu liên quan đến tế bào gốc.

Các kết quả của những công trình nghiên cứu về việc sử dụng tế bào gốc trưởng thành nơi con người cho thấy rằng các "Multipotent Stem Cells" (tên của một loại tế bào gốc đa năng) có tiềm năng rất lớn trong công việc nghiên cứu lẫn việc phát triển phương pháp trị liệu tế bào (cell therapies).

Một bằng chứng cụ thể là người ta có thể dùng các tế bào gốc trưởng thành trong việc cấy, ghép. Người ta có thể tách biệt những tế bào gốc trưởng thành từ bệnh nhân, rồi tạo điều kiện thuận tiện để chúng từ từ phân chia và sinh sản ra các tế bào có những chức năng chuyên biệt. Sau đó, người ta đem cấy chúng trở lại cho bệnh nhân. Làm như vậy thì sẽ tránh được tình trạng các tế bào này bị từ chối bởi thân thể của bệnh nhân.

Cách thức sử dụng các tế bào gốc trưởng thành cho các phương pháp trị liệu, nhằm thay thế các tế bào đã bị thoái hóa hay không còn khả năng thực hiện các chức năng riêng biệt của chúng nữa, sẽ giảm thiểu hoặc tránh né được, ngay cả việc sử dụng đến các tế bào gốc lấy được từ các phôi hoặc các mô từ bào thai người. Ðiều này đã và đang gây nhiều sự phản đối, vì những yếu tố về mặt luân lý.

Những lợi ích khả thể mà các chuyên gia nghiên cứu hiện nay đưa ra thì có lẽ nhiều vô số kể. Nói chung hầu như là bá bệnh đều có thể trị được, nếu bằng lòng áp dụng và cho phép sử dụng phương pháp sinh sản vô tính. Ở đây chỉ đề cập đến những gì có tính cách hiện thực mà cóäng đồng thế giới đang mong mỏi nơi các chuyên gia nghiên cứu, dựa trên những khám phá gần đây nhất.

Về việc sử dụng các tế bào gốc cho phương pháp trị liệu: Phần đông các bệnh tật nơi con người là kết quả do việc các tế bào trong con người của chúng ta ngưng hoạt động hay không làm việc theo đúng như chức năng của chúng, hoặc do bởi các mô của thân thể bị hủy hoại. Hiện nay, để thay thế cho các cơ phận hoặc ghép các bộ phận, cũng như mô không còn hoạt động bình thường, các chuyên viên y khoa đã cần phải sử dụng đến các bộ phận, ví dụ như tim, thận, tủy, mắt v.v..., được hiến tặng.

Tuy nhiên, không may cho chúng ta là số bệnh nhân càng ngày càng gia tăng và vượt hẳn con số về các bộ phận mà chúng ta có được (do sự hiến tặng của các ân nhân) để thay thế hay cấp, ghép. Tế bào gốc có thể cung ứng cho ta một nguồn nguyên liệu mới phong phú, hầu có thể thay thế các tế bào và mô đã bị hỏng, nhằm chữa trị các chứng bệnh nan y, ví dụ như: bệnh tim, bệnh ung thư, bệnh Parkinson (liệt run rẩy), bệnh Alzheimer (bệnh mất trí nhớ ở tuổi già), bệnh tiểu đường, bệnh mất trí nhớ, bệnh chấn thương cột sống, cơn đột trụy (stroke), bệnh đau nhức thấp khớp kinh niên, bị phỏng nặng v.v... Có thể nói hầu như các căn bệnh thông thường hiện nay, đều có nhiều cơ may điều trị bởi việc sử dụng các tế bào gốc mà gần đây các chuyên gia nghiên cứu mới khám phá ra.

Như vậy, qua những khám phá của khoa học, chúng ta nhận thấy lợi ích của tế bào gốc, hay còn gọi là tế bào mầm hoặc là tế bào trơn, là rất lớn lao. Nhưng, vấn đề đang gây tranh luận mạnh mẽ hiện nay là việc sử dụng tế bào gốc lấy từ phôi thai (Embryonic Stem Cells) và tế bào gốc lấy từ người trưởng thành (Adult Stem Cells). Những khám phá về lợi ích của tế bào gốc như vừa được trình bày trên đây cho ta thấy tế bào lấy từ người trưởng thành cũng đã đem lại rất nhiều thành quả trong việc chữa trị bệnh tật. Dưới đây, chúng ta sẽ thấy rõ vấn đề này hơn qua ý kiến của các học giả có kinh nghiệm chuyên môn về nghành sinh-y học.

 

2. Quan điểm của các học giả và chuyên viên nghành sinh-y học

Mới đây, từ ngày 13 đến 14.11.2001, tại Rô-ma, một Hội Nghị chuyên đề về việc nghiên cứu các tế bào gốc trong các phương pháp trị liệu, diễn ra tại Ðại Học Giáo Hoàng Ateneo Pontificio Regina Apostolorum - Rô-ma. Tại đậy, các nhà chuyên môn đã thảo luận về những vấn đề nan giải và những thiện ích cho con người trong công trình nghiên cứu tế bào gốc. Tiến sĩ Esmail D. Zanjani, một trong những chuyên gia đang dẫn đầu về việc nghiên cứu tế bào gốc, hiện là giảng sư tại đại học Nevada, Hoa Kỳ, đã đưa ra những nhận định phù hợp với quan điểm và chiều hướng lập luận hiện thời của Giáo Hội Công Giáo. Ông phát biểu rằng:

"Hiện nay, có rất nhiều dữ kiện cho thấy, chúng ta có thể thành công trong việc sử dụng các tế bào gốc trưởng thành (Adult Stem Cells) để điều trị các chứng bệnh về tim và các mô bị hư hại. Sau nhiều lần thử nghiệm việc dùng các tế bào gốc trưởng thành, thì kết quả cho thấy công việc này đã rất có hiệu nghiệm và đã đạt được những kết quả khả quan như đã tiên đoán. Cho nên, tôi thiết nghĩ rằng chúng ta không nhất thiết phải sử dụng đến các tế bào gốc lấy từ phôi thai (Embryonic Stem Cells), vì điều đó gặp phải nhiều sự chống đối xét về mặt luân lý, mà đồng thời kết quả thì cũng chưa chắc gì đã trổi vượt hơn việc dùng các tế bào gốc trưởng thành trong các phương pháp trị liệu".

Chúng ta còn thấy một ý kiến tương tự như thế của bà Monica Lopez Barahona, một giảng sư tại Ðại học Francisco de Victoria (Tây Ban Nha), khi được phóng viên nhà báo phỏng vấn tại Hội nghị trên đây, bà đã phát biểu như sau:

"Không thể chấp nhận được sự việc tạo một phôi người, rồi sau đó chỉ lấy các tế bào gốc rồi thì hủy bỏ nó đi. Theo quan điểm của các khoa học gia, thì hiển nhiên đã có sự hiện diện của một con người ngay từ khi trứng được thụ tinh. Vì lý do đó, không thể chấp nhận được xét về mặt đạo đức, khi sử dụng sự sống người này (tức là các phôi bị sử dụng để lấy tế bào gốc) để cứu một người khác (tức là để cấy ghép hoặc thay thế các bộ phận bị hư hỏng)".

Chúng ta còn thấy những ý kiến cho rằng giết những phôi thai người để phục vụ việc nghiên cứu, quả là điều sai lầm trong mọi trường hợp. Ông R. Colombo, một chuyên gia nghiên cứu về khoa Sinh Học Phân Tử (molecular biologist) nhận định rằng: "Không có sự hiểu biết khoa học nào giúp chúng ta bênh vực cho sự chống đối cái bản tính hợp lý của phôi thai, của bào thai và sự cá biệt hóa của nó".

Ðức Giám Mục Elio Sgreccia, phó chủ tịch Giáo Hoàng Học Viện về sự sống, thành viên nghiên cứu những vấn đề sinh đạo đức của Tòa Thánh, Giáo sư và Giám đốc của Trung tâm Sinh Ðạo Ðức ở trường Y Khoa thuộc Ðại Học Công Giáo Thánh Tâm ở Rô-ma, đã nói rằng:

"Những nhà nghiên cứu chọn phôi thai có tiềm năng điều trị tốt hơn và dễ dàng hơn. Họ nói rằng tế bào phôi thai "thật kỳ diệu". Nhưng nhiều khoa học gia cho biết rằng điều này chưa được chứng minh. Chúng ta không chắc rằng tế bào gốc lấy từ phôi thai có thể chữa những bệnh như họ nói. Hơn thế nữa, nhiều khoa học gia khác nhận thấy rằng tế bào gốc lấy từ phôi thai đã gây ra ung bướu, nguy hại cho bệnh nhân. Cho dẫu chứng minh được rằng phôi thai giúp ích cho việc nghiên cứu, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta không được phép sát hại một sinh mạng để cứu một người khác".

Ông Ken Connor, chủ tịch Hội Nghiên Cứu Về Gia Ðình tại Hoa Kỳ, cũng khẳng định rằng: "Theo nguyên tắc đạo đức, chúng ta không thể giúp người này bằng cách làm hại người khác. Trong luật pháp, lý thuyết này gọi là trái của cây độc".

Trong lá thư của Hội Nghị các Giám Mục Ca-na-đa gởi cho bà Anne Mclellan, Bộ Trưởng Y tế Liên Bang Ca-na-đa, để phản đối dự quyết luật về sử dụng tế bào gốc, vị Giám Mục Chủ tịch của Hội Nghị này, Jaques Berthelet, đã nói rằng:

"Quan điểm của chúng tôi về việc nghiên cứu tế bào gốc lấy từ phôi thai là như sau: Phôi thai người đã là người thực sự với đủ phẩm tính người và cần phải được tôn trọng như một bản vị chứ không được coi như vật để nghiên cứu. Khẳng định này dựa trên lẽ phải và niềm tin, được ủng hộ bởi đông đảo các nhà khoa học và đạo đức học, tiềm năng của phương pháp chữa bệnh dùng một phần phôi thai để chữa những bệnh do bộ phận cơ thể thoái hóa không thể tránh được một thực tế là phôi thai sẽ chết trong tiến trình thực hiện... Trong báo cáo mới nhất của của Viện Nghiên cứu Sức Khỏe Ca-na-đa đã nói rằng: nhiều người quan tâm đã bày tỏ quan điểm là phôi thai có đủ những yêu sách luân lý và quyền bất khả xâm phạm sự sống ngay từ lúc thụ thai".

Trong bài trả lời phỏng vấn của ông Ferrisi, Ðức Giám Mục Elio Sgreccia, phó Chủ tịch Giáo Hoàng Học Viện về sự sống, nói rằng:

"Dùng tế bào gốc trưởng thành lấy từ cuống rốn, từ bào thai hư, hay từ bộ phận khác của cơ thể người lớn, không đặt ra vấn đề đạo đức. Càng ngày chúng ta càng thấy rằng tế bào gốc trưởng thành có khả năng phát triển không những bộ phận gốc mà cả những bộ phận khác trong cơ thể, ví dụ như tế bào gốc lấy từ máu có thể phát triển nên tế bào thần kinh. Chúng tôi không hiểu tại sao người ta chỉ muốn dùng phôi thai để lấy tế bào gốc khi có thể dùng tế bào gốc trưởng thành lấy từ người lớn. Nếu họ thao tác trên một phôi thai để tạo ra một "phôi thể" (embroid body) thì họ phạm hai lỗi: tạo ra phôi thai và rồi lại cắt xén ra nhiều mảnh".

Các nhà nghiên cứu phân biệt giữa việc cấy phôi thai - do phương pháp tạo sinh dòng vô tính tạo ra - vào tử cung người nữ để có con (đang bị toàn thế giới bác bỏ) với việc dùng phương pháp tạo sinh dòng vô tính để điều trị, một danh từ kỳ lạ, có nghĩa là dùng phương pháp phát triển thành dòng vô tính tạo ra phôi thai để thử nghiệm rồi hủy bỏ nó đi. Những người ủng hộ phương pháp tạo sinh dòng vô tính để trị liệu lý luận rằng phôi thai trong những giai đoạn đầu cho đến ngày thứ 15 chưa phải là một nhân vị (human person). Họ cho đó chỉ là một nhân thể (Human being). Sự khác biệt giữa nhân thể và nhân vị chỉ là trên danh từ. Không có nhân vị nào mà không trải qua giai đoạn nhân thể. Phôi thai là giai đoạn đầu của một cá nhân; nó sẽ trưởng thành khi phát triển hết tiềm năng. Ngay từ ngày đầu, nó đã hội đủ tất cả khả năng nội tại. Những danh từ trên đây dùng để áp đặt ý niệm ngôn ngữ và sinh lý vì mục đích vị lợi.

Cũng liên quan đến vấn đề dùng phương pháp sinh sản vô tính tạo ra phôi thai để lấy tế bào gốc nhằm chữa trị, Ðức Hồng Y Murphy O' Connor, thuộc Giáo Phận Westminster, Anh Quốc, đã viết trên tờ Daily Telegraph, ngày 23.11.2001, rằng:

"Ðối với những lợi ích của việc nghiên cứu tế bào gốc từ phôi thai do sinh sản vô tính, theo tôi là không cần thiết và sai lầm trầm trọng. Không cần thiết vì phôi thai người không phải là nguồn duy nhất cung cấp tế bào gốc cho nghiên cứu. Khoa học trong lãnh vực này đã tiến bộ với tốc độ đáng kinh ngạc và việc sử dụng tế bào gốc lấy từ người trưởng thành trong chữa bệnh đã được thực hiện rất thành công trên bệnh nhân... Sinh sản vô tính cho thí nghiệm là sai, bởi vì, thực sự cứu cánh không biện minh cho phương tiện được. Cứu cánh - chữa trị Y khoa - là tốt; nhưng phương tiện thì liên quan đến việc tạo ra và giết chết mạng sống con người. Ðiều này tự bản chất là phi luân lý.

Một phôi thai không phải là một phép cộng đơn thuần những tế bào... Phôi thai và người trưởng thành đều có những cơ phận như nhau trong những giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển và trưởng thành. Phôi thai không thể có những phản ứng về tình cảm như một thai nhi đã phát triển trong tử cung. Nhưng từ quan điểm luân lý, kích cỡ hay ngoại hình có phải là yếu tố quyết định không? Tất cả chúng ta đều là những phép cộng đơn thuần của các tế bào sao?"

 

3. Tiếng nói của Giáo Hội

Ðứng trước các phát minh mới mẻ trong ngành y-sinh học, cách riêng được thực hiện đầu thế kỷ thứ 21 này, cụ thể là việc sử dụng các tế bào gốc trong các phương pháp trị liệu, Giáo Hội Công Giáo luôn luôn tán thưởng và khuyến khích các nỗ lực và thiện chí của các chuyên gia nghiên cứu tìm ra những phương thức trị liệu hữu hiệu nhằm đem lại hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng khuyến cáo những lạm dụng mà các chuyên gia nghiên cứu đang thực hiện một cách vô luân và vô nhân đạo. Bởi vì, lập trường của Giáo Hội là "những điều có thể làm được về mặt kỹ thuật, thì không nhất thiết có thể chấp nhận được về mặt đạo đức". Chúng ta thấy được tiếng nói của Giáo Hội qua các văn kiện của Ðức Giáo Hoàng, của các Thánh Bộ hoặc của Giáo Hoàng Học Viện, cũng như các Hội Ðồng Giám Mục các nước trên thế giới.

a. Ðối với việc can thiệp và thí nghiệm trên phôi thai

Trong Thông Ðiệp "Tin Mừng về Sự Sống", số 81, Ðức Gio-an Phao-lô 2 nói rằng: "Là hồng ân quí báu Chúa ban, sự sống con người thì thánh thiêng và bất khả xâm phạm... Lòng tôn trọng sự sống đòi hỏi khoa học và kỹ thuật phải được hướng về con người và sự phát triển toàn diện con người, toàn xã hội tôn trọng, bênh vực và thăng tiến phẩm giá của mọi con người, vào mọi thời điểm và mọi tình trạng của cuộc sống họ".

Bởi vậy, Ngài nói tiếp: "Chính việc nghiên cứu y học, môt lĩnh vực đầy quyến rũ và tiên báo nhiều lợi ích mới mẻ vĩ đại cho nhân loại, phải luôn từ chối những thí nghiệm, những nghiên cứu hoặc những ứng dụng trong khi chối bỏ phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, những việc này không còn phục vụ con người nữa, và kỳ thực, tự biến mình thành những thực thể áp chế con người trong khi lại có vẻ giúp đỡ con người".

Sở dĩ Giáo Hội không chấp nhận việc tạo phôi thai để lấy tế bào gốc nhắm vào việc trị liệu, là vì Giáo Hội vẫn bảo tồn lập trường giáo huấn liên tục và vững chắc của mình, theo đó "sự sống ngay từ lúc thụ thai, phải được gìn giữ hết sức cẩn thận, việc phá thai cũng như việc sát nhi, là những tội ác ghê tởm". Ðiều này cũng được Hiến chương các quyền của gia đình do Tòa Thánh công bố, đã tái khẳng định rằng: "Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ một cách tuyệt đối ngay từ lúc thụ thai". Lập trường này vẫn là một khẳng định mạnh mẽ, một qủa quyết không do dự, được Giáo Hội trình bày qua Huấn Thị Domun Vitae I, 1 và được Ðức Gio-an Phao-lô 2 lặp lại trong Thông Ðiệp "Tin Mừng về Sự Sống", số 60, rằng:

"Ngay từ khi trứng được thụ tinh, một sự sống mới được bắt đầu, mà sự sống ấy không phải là của cha, cũng chẳng phải của mẹ, nhưng đúng hơn đó là sự sống của một con người mới và nó có thể tự mình phát triển. Nó sẽ không bao giớ trở thành, nếu nó không là người ngay từ lúc đó". Bởi vậy, Ngài nói tiếp: "Trên quan điểm nghĩa vụ đạo đức, duy chỉ khả năng đứng trước một ngôi vị đã đủ để biện minh cho sự cấm chỉ rõ ràng nhất mọi can thiệp dẫn tới thủ tiêu phôi người".

Hơn nữa, đôi khi người ta sản xuất phôi với số lượng nhiều hơn nhu cầu để cấy vào tử cung của phụ nữ và các "phôi dư" này, như người ta gọi, sau đó bị loại bỏ hoặc dùng cho những cuộc nghiên cứu dưới danh nghĩa vì sự tiến bộ khoa học. Thực ra, đây là những cuộc nghiên cứu biến sự sống con người thành một thứ "chất liệu sinh học" đơn giản mà người ta có thể tùy ý sử dụng một cách tự do. Ðối với việc can thiệp trên phôi thai người nhằm mục đích chữa trị, thì Giáo Hội nói rằng: "Như mọi can thiệp y khoa khác trên bệnh nhân, phải coi là được phép những can thiệp trên phôi thai người, với điều kiện là chúng tôn trọng sự sống và sự toàn vẹn của phôi thai và không có những nguy cơ không tương xứng cho phôi thai, trái lại, chúng hoàn toàn phải nhằm chữa trị, cải thiện tình trạng sức khoẻ hoặc kéo dài sự sống của phôi thai".

Trong diễn văn tại Hiệp Hội Các Thầy Thuốc Thế Giới, Ðức Gio-an Phao-lô 2 cũng đã nói về tính chính đáng và về các tiêu chuẩn của sự can thiệp như đã nói trên đây rằng:

"Một can thiệp chỉ nhằm chữa trị các bệnh tật, như bệnh do các nhiễm sắc tố có khuyết điểm, thì trên nguyên tắc được coi là nên làm, mà không phạm tới sự toàn vẹn hay làm giảm suy các điều kiện sống của nó. Một sự can thiệp như vậy nằm trong chiều hướng hợp lý của truyền thống đạo đức Ki-tô giáo".

Trái lại, Giáo Hội khẳng định rằng: "Việc sử dụng những phôi hoặc những thai người như những đồ vật thí nghiệm là một tội ác nghịch với phẩm giá người của chúng, vốn có quyền được tôn trọng ngang hàng với đứa trẻ đã sinh ra và với bất kỳ người nào". Giáo Hội còn đưa ra những nguyên tắc rõ hơn về việc thí nghiệm trên phôi thai sống và phôi thai chết rằng:

"Xác các phôi thai người, do cố ý phá thai hay không, phải được tôn trọng như thể xác mọi người khác. Cách riêng, chúng không được đem ra cắt cưa, mổ xẻ trước khi người ta nhìn nhận chúng đã chết rồi, và nếu không có sự ưng thuận của cha mẹ hoặc của người mẹ... Ðối với các thai chết, cũng giống như đối với xác người lớn, mọi hành vi buôn bán phải coi là trái phép và bị cấm... Nếu là phôi thai đang sống, dù chúng có khả năng tiếp tục sống hay không, chúng phải được tôn trọng như mọi nhân vị... Không một cứu cánh nào, ngay cả tự nó cao thượng, như mưu cầu lợi ích của khoa học, của tha nhân hay của xã hội, có thể biện minh được cho việc thí nghiệm trên phôi thai đang sống, dù chúng có khả năng tiếp tục sống hay không, bên trong hay bên ngoài lòng mẹ... Việc dùng phôi thai người làm đối tượng hay dụng cụ để thử nghiệm là một tội phạm đối với phẩm giá con người".

Bởi vì, "sự tôn trọng phẩm giá con người thì loại trừ mọi thử nghiệm hay khai thác phôi thai con người". Do đó, việc thí nghiệm trên phôi thai người không trực tiếp nhằm chữa trị là trái phép và bị lên án. Ðức Gio-an Phao-lô 2, trong diễn văn trước những người tham dự Hội Nghị Viện Hàn Lâm Khoa Học của Tòa Thánh ngày 23.10.1982, đã quả quyết rằng: "Tôi kết án minh nhiên nhất và tỏ tường nhất mọi thử nghiệm trên phôi thai con người, vì hữu thể người từ lúc được thụ thai cho đến chết, không thể là đối tượng được khai thác cho bất kỳ lý do gì".

Giáo Hội chỉ có thể coi là được phép trong trường hợp thử nghiệm với mục đích rõ rệt là chữa trị. Huấn Thị Donum Vitae nói:

"Trong trường hợp thử nghiệm với mục đích rõ rệt là chữa trị, nghĩa là trường hợp các phương pháp chữa trị được đem ra thử, nhằm ích lợi của chính phôi thai như một cố gắng cuối cùng để cứu mạng sống của nó và vì không có phương cách chữa trị nào khác có giá trị, thì việc sử dụng các thuốc hay các phương pháp chữa trị chưa hoàn toàn chắc chắn, có thể được phép".

Ðiều này cũng được Ðức Gio-an Phao-lô 2 nói rằng: "Mọi dạng thí nghiệm trên thai nhi mà có thể làm biến đổi tính toàn vẹn hay làm trầm trọng thêm các tình trạng, trừ phi đây là toan tính tột cùng để cứu sống nó, thì về phương diện đạo đức không thể chấp nhận được".

b. Ðối với việc sử dụng tế bào gốc trong việc cấy ghép để chữa trị

- Trường hợp thứ nhất là lấy tế bào gốc từ phôi thai:

Ngày nay, khoa học đã có thể bào chế ra tế bào phôi thai của con người, điều nay đưa đến một tiến trình gồm 4 giai đoạn:

1. Sự sản xuất ra bào thai và việc sử dụng phôi thai đông lạnh hay phôi thai dư thừa sau khi cho thụ tinh nhân tạo.

2. Sự phát triển ra một phôi thai đa bào sơ khai.

3. Sự tách ra một số tế bào của phôi thai, một thủ thuật gây nên sự tiêu hủy bào thai.

4. Sự cấy các tế bào ấy.

- Trường hợp thứ hai là lấy tế bào gốc từ người trưởng thành

Trường hợp lấy tế bào gốc từ người trưởng thành, tức là lấy tế bào từ mọi cơ quan của người lớn và cấy để sản xuất số nhiều trong phòng thí nghiệm. Phương pháp này tốn nhiều thời gian hơn và theo quan điểm của một số khoa học gia, thì nó không có lợi cho bằng dùng thẳng tế bào gốc lấy từ phôi thai sẵn có, nhất là phôi thai đã được đông lạnh.

Theo Tuyên ngôn về sự sản xuất và sử dụng tế bào gốc phôi thai trong nghiên cứu và trị liệu của Giáo Hoàng Học Viện Tòa Thánh Về Sinh Học, thì người ta chưa có thể so sánh kết quả trị liệu đã hay có thể đạt được bằng cách sử dụng tế bào gốc phôi thai và tế bào gốc trưởng thành. Về phần các tế bào gốc trưởng thành, nhiều hãng bào chế thuốc đã làm thí nghiệm và đạt được vài dấu hiệu tốt và cho người ta ngày càng hy vọng trong tương lai gần hay xa. Còn về phần các tế bào gốc phôi thai thì sự áp dụng trong y khoa cần được cân nhắc kỹ lưỡng cũng như phải có ý thức trách nhiệm về phẩm giá của con người.

Tuyên ngôn này cũng trình bày cho thấy nhiều vấn đề luân lý đạo đức được đặt ra đối với việc sử dụng tế bào gốc lấy từ phôi thai.

Thứ nhất là: Sản xuất hay sử dụng bào thai sống của con người để lấy tế bào gốc là không hợp luân lý. Bởi vì, trên căn bản phân tích hoàn toàn sinh học, bào thai sống của con người - kể từ khi hai tế bào giao tử giao hợp nhau - đã là một con người với đầy đủ đặc tính. Từ đó, là một nhân vị, bào thai có quyền sống của nó. Vì vậy, mọi sự can thiệp, ngoại trừ để bảo vệ bào thai, là một sự vi phạm quyền sống ấy. Do đó, lấy đi một số tế bào của phôi sẽ gây thiệt hại trầm trọng không thể hàn gắn cho bào thai, chận đứng sự triển nở và là một hành động vô luân trầm trọng, vì đó là một hành động phạm pháp trầm trọng.

Vấn đề đạo đức luân lý thứ hai là: Sản xuất bào thai con người, rồi hủy đi để lấy tế bào gốc phôi thai với cái gọi là "mục đích điều trị" là không hợp luân lý. Bởi vì, vấn đề đạo đức- luân lý trên đây lại được đưa ra.

Vấn đề đạo luân lý thứ ba là: Sử dụng tế bào gốc phôi thai và tế bào biến thể do những nhà nghiên cứu cung cấp hay có trên thị trường cũng bị coi là nghịch luân lý. Bởi vì, chia sẻ, rõ ràng hay không, một ý đồ bất chính trên căn bản luân lý của nhân tố chính thì trong trường hợp này sự đồng loã cụ thể vẫn có trong công việc sản xuất và sử dụng bào thai con người của người sản xuất hay người cung cấp.

Bản tuyên ngôn trên đây kết luận rằng: "Nếu sử dụng tế bào gốc trưởng thành để đạt được cùng mục đích như việc sử dụng tế bào gốc phôi thai - dẫu cho phải trải qua nhiều giai đoạn trước khi đạt được những kết quả rõ ràng và cụ thể - là con đường hợp lý và nhân đạo nhất phải theo để đạt đến những tiến bộ chân chính và có giá trị trong lãnh vực nghiên cứu mới với nhiều hứa hẹn điều trị. Không ai nghi ngờ gì rằng điều này tiêu biểu cho niềm hy vọng lớn cho một số đông người đang đau khổ".

Trong Thông Ðiệp Tin Mừng Về Sự Sống, Ðức Gio-an Phao-lô 2 đã lên án về mặt luân lý đối với phương pháp khai thác các phôi và các thai sống. Ngài nói: "Trên quan điểm nghĩa vụ đạo đức, duy chỉ khả năng đứng trước một ngôi vị đã đủ để biện minh cho sự cấm chỉ rõ ràng nhất mọi can thiệp dẫn tới thủ tiêu phôi người" và "giết chết những hữu thể người vô tội, dù có vì những lợi ích của người khác, thực tế là một hành động tuyệt đối không thể chấp nhận". Bởi vì, như Huấn Thị Donum Vitae nói: "Con người phải được tôn trọng và đối xử như một nhân vị ngay từ khi được thụ thai, và vì đó, ngay từ giây phút ấy, người ta phải nhìn nhận nơi nó những quyền của nhân vị, trong số đó phải kể trước tiên quyền được sống của mọi con người vô tội, đây là một quyền bất khả xâm phạm". Do đó, thật là "vô luân, nếu người ta sản xuất ra những phôi thai người để khai thác chúng như "vật tư sinh học" cho người ta sử dụng".

Như vậy, chúng ta thấy lập trường của Giáo Hội cho là phản luân lý- đạo đức, khi người ta dùng phương pháp lấy tế bào gốc từ phôi thai (Embryonic Stem Cells), vì phương pháp này phải tạo ra phôi thai, rồi lấy tế bào gốc từ phôi đó và cuối cùng phôi thai bị tiêu hủy. Nhưng, Giáo Hội khuyên nên đi theo hướng dùng phương pháp lấy tế bào gốc từ người trưởng thành (Adult Stem Cells). Những vấn đề này đã được đề cập đến trong Diễn Từ của Ðức Gio-an Phao-lô 2 tại Hội Nghị Quốc Tế Về Cấy Ghép diễn ra tại Rô-ma, ngày 29.8.2000. Trước Hội Nghị gồm 4.000 khoa học gia và chuyên gia về y tế, Ðức Thánh Cha đã nói:

"Trong mọi biến cố, các phương pháp không kính trọng phẩm giá và giá trị con người phải luôn bị loại bỏ. Tôi đang nghĩ đến những toan tính dùng phương pháp sinh sản vô tính trên con người nhằm có những cơ quan để cấy ghép: Những kỹ thuật này, trong mức độ chúng liên quan đến việc sử dụng và phá hủy những phôi thai của con người, không thể chấp nhận được về mặt đạo đức, dù khi những mục tiêu tự nó đề ra tự nó là tốt. Khoa học tự nó hướng về những hình thức chữa bệnh khác mà không dùng phương pháp nhân vô tính hoặc sử dụng các tế bào phôi thai, nhưng sẽ sử dụng những tế bào lấy từ người lớn. Ðó là hướng phải theo của các nghiên cứu, nếu nó muốn tôn trọng phẩm giá của mỗi người và mọi người, dù cả ở giai đoạn phôi thai".

Mới đây, sau khi một công ty tư nhân, Advanced Cell Technology tại bang Massachusetts - Hoa Kỳ, tuyên bố trên truyền hình ngày 25.11.2001 là họ mới thực hiện tạo sinh vô tính một phôi người đầu tiên, thì Ðức Gio-an Phao-lô 2 lập tức lên tiếng chỉ trích và cảnh báo việc làm của Công ty nói trên là thiếu tính cách đạo đức. Ngài nói:

"Khi khoa học thí nghiệm trên phôi người hay khi nó sinh sản ra phôi người từ việc sinh sản vô tính, nó đang chế ngự trên vận mệnh con người...  Một con người không thể được xem như một đối tượng hay vật liệu cho việc thí nghiệm. Ngược lại, cần phải đối xử một cách tôn trọng những tế bào gốc ngay ở thời kỳ phôi thai. Những lợi ích có tính giả thuyết đối với nhân loại hay với một quá trình nghiên cứu không thể nào tạo nên chuẩn mực quyết định của sự thiện luân lý... Việc sản xuất và hủy diệt phôi người chỉ với mục tiêu đơn giản là thí nghiệm và thu thập các tế bào gốc đã tạo nên một cuộc tấn công nghiêm trọng chống lại việc tôn trọng cách tuyệt đối mỗi một sự sống và đi ngược lại sự cao cả của mỗi con người, không tùy thuộc vào hình dáng bên ngoài hay những ràng buộc mà họ có với những thành viên khác trong xã hội".

 

Phó Tế Nguyễn Văn Tâm, DCCT

 

(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 88 năm 2002)

 


Back To Vietnamese Missionaries in Asia Home Page