Quan điểm này tương tự như những cái nhìn của các thánh giáo phụ Hy Lạp trong thế kỷ thứ hai, tỉ dụ như Thánh Justinus đã tin tưởng Thiên Chúa gieo những hạt giống khôn ngoan trong tâm trí con người mọi thời mọi nơi, ai ai cũng nhận được hạt giống đó và như vậy đều được tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Tất cả những khía cạnh và thành độ của sự tham dự này đều bao gồm trong sự khôn ngoan tự thân, muôn đời đã hiện hữu ẩn tàng và tới lúc ấn định, đã được biểu lộ trong mặc khải nơi Ðức Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Chân lý Mặc khải này được Ðức Kitô hứa sẽ cho con người hiểu thông khi Thánh Thần ngự đến. Như vậy, Thánh Thần Chúa không những là Ðại Ký Ứùc của thần học Kitô giáo mà còn là nguồn mạch mọi ơn sủng, ơn tự nhiên cũng như ơn siêu nhiên. Nhờ đó, ơn siêu nhiên không những không đi ngược với ơn tự nhiên, nhưng còn làm viên mãn ơn tự nhiên; và đàng khác nhiều khi nó cũng cần được ơn tự nhiên làm nền để chuẩn bị đón nhận nó. Chính vì thế, K. Rahner cũng như nhiều nhà thần học khác, đã xây dựng nền thần học của ông trên ơn sủng học và coi những người thành tâm khác như là "Kitô hữu ẩn danh". Ðó chỉ là kết luận nhất trí của một nền thần học chân nhận Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong lịch sử loài người, hướng dẫn để con người nhận ra Logos, gốc của trí tuệ, để liên kết và thánh hoá mọi sự hiểu biết. Hiểu như thế, chúng ta cũng có thể khẩn định Chúa Thánh Thần vẫn hướng dẫn con người Á đông tìm trong vũ trụ quan của mình ý niệm hòa hợp với căn bản Kitô giáo, Người vẫn soi chiếu Tâm-Linh dần dần nhận ra gốc của Nhân-Aùi là nền tảng của Kitô giáo và Nho giáo.
Trong quan điểm thần
học trên, chúng ta thử nhìn lại
những chiều hướng tiếp
cận, từ tương khắc tới
tương hợp, để nhận ra những
nét đặc thù của quan hệ Tân
Nho học hiện nay và Kitô giáo.
Thực ra đây không
phải là vấn đề không lối
thoát phải loại trừ nhau, nhưng
chỉ là hai quan điểm có vẽ
đối nghịch, nhưng có thể hoà
giải được. Thực ra nho sĩ
không phải tuyệt đối đứng
về quan điểm tính bản thiện của
Mạnh Tử, nhưng cũng có thế
chấp nhận bản tính ác của Tuân
Tử. Ðối với họ, quan trọng
là tu luyện (để giữ thiện,
hay để cải ác) để thành
quân tử. Tội nguyên tổ trong giáo
lý công giáo không phải là
lý chứng quyết định bảân
tính con người là thiện hay là
ác, nhưng là đe å giải thích
tội ác phát sinh từ đâu
và vì sao con người có thể
và cần được cứu độ.
Chính theo chiều hướng này, ø
giáo lý về tội nguyên tổ đã
được hiểu theo những cách
thể khác nhau, nhất là ngày nay
đối với thần học giải
phóng, tội nguyên tổ được
hiểu theo cơ cấu tội lỗi xã
hội ảnh hưởng sau xa tới con
người làm họ sống chiều
theo khuynh hướng sự ác. Nếu
có dịp so sánh và luận đàm
chiều hướng thần học này
với quan điểm tương quan thiện
ác của Mạnh Tử và Tuân
Tử, thì đó là một đề
tài rất hấp dẫnû và rất
bổ ích. Rất tiếc ở đây
vì giôí hạn của đề tài,
chúng ta không thể phát huy được.
Thật ra giữa tư
tưởng Nho học và Kitô giáo
không có sự đối lập như
giữa Phật giáo và Kitô giáo.
Từ thời tiền cổ, triết
học Trung Quốc vừa có chiều
kích nội tại và siêu việt, vừa
tự luật và tha luật, như chúng
ta thấy họ hiểu quan niệm Thiên mà
chúng ta đã bàn ở trên.
Có chăng sau này từ thời
Tống Minh, quan niệm Thiên bị cực
đoan nội tại hoá thành chủ nghĩa
duy tâm, nhất là trong trường
phái Tân Nho hiện nay càng đào
sâu quan điểm này, như của Mâu
Tông Tam, nên mới nẩy sinh ra ù
vấn đề đối chọi giữa
tự luật với tha luật, từ
đó mới đặt vấn đề
chủ nghĩa bất tri đối với
Thiên. Trong thần học Kitô giáo, chúng
ta thấy đừơng hiểu biết
Thiên Chúa vừa khẳng định,
vừa phủ định và vừa
nội tại vừa ngoại tại nữa.
Vì thế, tu đức không thể
không có chủ thể được;
nhưng đồng thời tu đức
không phải là kết quả của khổ
tu, nhưng là quá trình con người
hợp tác với ân sủng của
Thiên Chúa.
Thật ra khi chủ trương
con người tính bản thiện và
hướng về thiện, thì nho sĩ
Khổng Mạnh đã tin tưởng đó
là mệnh trời phú bẩm. Từ
đó họ mới nhận con người
tự lập và phát huy. Như vậy
những hành động luân lý
sau này cũng đã lệ thuộc vào
căn nguồn Thiên mệnh này rồi.
Nơi Kitô giáo sự lệ thuộc này
không những từ nới phát
xuất, nhưng còn tiếp tục xuất
cuộc hành trình làm người.
Như vậy, những đối lập trên
chỉ là những điểm nhấn
mạnh chứ không phải là mâu
thuẫn, vìù thực chất của
chúng đều như nhau.
Khi bàn tới quan niệm thiên, lễ và nhân, Khổng Tử tiếp tục tinh thần cổ điển lấy thiên làm căn nguyên mọi vật và là đấng thưởng phạt, nhưng trong thời chiến tranh, lễ nghĩa, luân lý suy đồi, ông đã lấy Nhân để dần dần thay lễ. Ðó là chiều hướng chủ nghĩa nhân đạo hay nhân bản. Niềm tin nhân bản (gốc thiện và hướng thiện) này đã thấm nhập vào mọi lãnh vực cuộc sống thành tam cương, ngũ thường, thành tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Nhân và Thành là hai hướng phát huy của khôn ngoan, đó là mẫu các vua thánh nhân, (Nghiêm, Thuấn), người lý tưởng của nho sĩ: "Nội Thánh, Ngoại Vương": đó là sự hòa hợp giữa thiên đạo và nhân đạo. Khi so sánh Khổng Tử và Ðức Kitô, H. Kung đã nêu ra những điểm tương đồng của hai bậc vĩ nhân này.
1) Cả hai sống trong thời xã hội loạn lạc, văn hoá nguy cơ và đã nhận sứ mạng rao giảng sứ điệp cải tổ xã hội, con người.
2) Cả hai đều thu hút môn đệ từ những tầng lớp khác nhau để tiếp tục sứ mạng mình.
3) Cả hai đều coi trọng truyền thống tu sửa, hoàn chỉnh tinh thần truyền thống.
4) Cả hai đều phê phán những hoàn cảnh tệ đoan.
Nhà thần học cựu
ước Phương Chí Vinh đặc
biệt so sánh và phát huy tinh thần
Nhân của Khổng Tử và Aùi
của Ðức Kitô thành Nhân-Aùi:
Nhân giống Cựu ước tuy nhấn
mạnh tới tinh thần tương quan giữa
người nhưng dưới khiá
cạnh tiêu cực hơn là tích
cực: "Ðừng?" Trong khi đó
đức Aùi không những tích
cực như người Samarita, nhưng còn
hơn nữa: yêu cả kẻ thù
và trở nên hoàn thiện như
Cha chúng con ở Trên trời là
đấng Hoàn Thiện. Cả hai tư tưởng
nồng cốt nhân và ái đều
lấy người làm khởi điểm
và chỉ hướng cho cách tu thân,
lối sống liên đới với
tha nhân trong hoà hợp đểø
xây dựng một thế giới đại
đồng, tứ hải giai huynh đệ,
một "trời mới đất mới".
Như vậy tư tưởng Khổng Tử
tuy trọng nhân bản nhưng không phải
làduy nhân bản, vì gốc nhân
bản là trời (thiên mệnh) và
Ðức Kitô đặt trọng tâm
nơi Thiên Chúa (Aùi) nhưng trong cuộc
sống chứng nhân qua lời rao giảng
và việc thực thi Nước Trời,
thì đức Aùi đã nhập
thể và nhập thế : đức
Aùi hình thành nơi con người
và vì việc cứu độ của
con người (ý Cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời).
Trong những triết gia Trung quốc thời nay, chúng ta nhận thấy Phương Ðông Mỹ là một triết gia đã tổng hợp tư tưởng nho gia và nhất thống hóa thành một hệ tư tưởng tương đối vững chắc, ông không những chỉ dạy cho các học sinh ông như Thẩm Thanh Thông, Phụ Phối Vinh? tiếp tục phản tỉnh, mà còn là ø một triết gia đã ảnh hưởng không ít tới việc phản tỉnh và xây dựng một nền thần học Trung Hoa, như thần học nhất thể tính. Trong quá trình này, các nhà thần học Trung Hoa này đã học hỏi truyền thống Tây phương "fides quoerens intellectum" và chuyển hoá thành "fides quoerens sapientiam" cho hợp với lối suy tư văn hoá Á Châu.
Trước tiên chúng ta thử tìm hiểu cái nhìn "Nhất Thể" của Phương tiên sinh, sau đó xét coi thần học giaTrương Xuân Thân đã luận đàm và tìm cách xây dựng thần học bản vị hóa trên căn bản triết học Nhất Thểù ra sao.
Phương Ðông Mỹ trong một bài diễn giảng: "Trung quốc triết học ảnh hưởng tới thế giới tương lai" có thể nói đã gồm tóm những kết tinh của cả cuộc đời suy tư triết học của ông thành một hệ thống. Ông đã minh giải ï triết lý sống đo như sau:
Ông chũ trương
sinh mệnh là một hữu thể trong
vũ trụ, được thu nhỏ và
gói ghém trong tiểu vũ trụ, con người.
Phản tỉnh về con người sống,
chúng ta sẽ nhận ra tính nhất thể
của vũ trụ. Ông phân tích con
người sống theo sáu lãnh vực
sau: vật chất, sinh vật, tâm lý, thẩm
mỹ, đạo đức và tôn
giáo. Ông cho rằng, lấy động
lực sống khai phá phạm vi sinh mệnh
vật chất, tức là người
công nhân (homo faber). Lấy lực tồn
sinh phát triển từ phạm vi vật
chất tới thế giới sinh vật,
tức là người hành động
(homo dionysiacus). Phạm vi kế tiếp là lấy
tâm lực phát huy tâm lý, tức
là người sáng tạo (homo sapiens).
Khi lấy tâm năng hình thành những
phạm vi siêu việt của cuộc sống,
con người đã bỏ lãnh vực
tự nhiên để từng cấp
một, từng quan điểm một trở
thành con người tượng trưng
(homo symbolicus), lấy ký hiệu ngôn ngữ
làm cách diễn đạt siêu việt
tính, hay trở thành người
đạo đức (homo honestatis) lấy
tinh thần đánh giá phẩm cách
để thực thi trật tự luân
lý, và người tôn giáo
(homo religiosus) lấy thế giới hoà
hợp chân thiện mỹ làm căn
bản cho cuộc sống. Khi con người
thực sự viên mãn cuộc sống
tôn giáo, họ là những "thánh
nhân", "hiền nhân" hay triết nhân,
những người như Khổng Tử
nói "tri thiên mệnh", hay tham dự vào
cuộc giáo hoá của trời đất.
Cội gốc phát xuất sinh mệnh và
nơi hồi qui những tinh anh của vạn
vật, Phương tiên sinh gọi là "thần
tính" là "thực hữu tối cực"
(the really real reality), là bí mật huyền
nhiệm thâm sâu (the mysteriously mysterious Mystery).
Cội gốc này có lẽ sẽ dễ
hiểu hơn khi so sánh với tư tưởng
của Meister Eckhart. Quan Vĩnh Trung đã tóm
lược tư tưởng của Meister
Eckhart trong lược đồ như sau:
Linh mục Trương cho rằng, lý do chính mà Phương tiên sinh coi hệ tư tưởng của mình là "phiếm thần", vì ông cho rằng sinh lực "Thần" thẩm thấu qua mọi lãnh vực sức sống và làm cho mọi lãnh vực hoà hợp với nhau, như ông viết trong cuốn sách "triết lý sống". Dùng hình ảnh tượng trưng lãng mạn, ông nói: tình yêu của hai người yêu nhau trong như mắt nước để họ soi và nhận ra nhau. Trong hình ảnh của anh tôi tồn tại và trong tôi anh tồn tại. Ðó là cách nói tượng trưng của Thiên-Nhân hợùp nhất và vũ trụ như mặt nước để nhận ra nhau. Như vậy Thiên-Ðịa-Nhân là lối kết, tiếp tục để hợp nhất (hợp, bất gián, nhất thể) là "Nhân", như giám mục La Quang giải thích.
Trương tiên sinh thắc mắc, phải chăng sinh mệnh là lối kết và tiếp tục nguồn sống để thành tinh hoa của hoà hợp, hợp nhất với "thần tính", nhất thiết phải là phiếm thần (pantheism)? hay sự thực có thể hiểu là "pan-en-theism"; như Thánh Phaolô đã viết trong 1Cor 15:28: "Thiên Chúa thành vạn hữu của vạn vật" (God-becomes-all-in all)? Giữa hai quan điểm đó là: "Thiên Chúa là tất cả" hay "Tất cả là Thiên Chúa" ("All-is-God") và "Thiên Chúa ở trong tatá cả" hay tất cả ở tại Thiên Chúa" ("All-is-in-God") có một sự khác biệt rõ ràng Ðó là quan điểm "phiếm thần" và "phiếm tại Thần". "Ở-Tại" có thể được quảng diễn bằng cách nói trong thánh lễ: nhờ Ðức Kitô, trong Ðức Kitô và qua Ðức Kitô-một sự hiệp nhất bất gián nhưng không phải là phiếm thần. Trương Xuân Thân nhận định, nếu thần học Á đông nói chung và thần học Trung Hoa nói riêng có thể đặt nền tảng trên "phạm trù" Thiên-Ðịa-Nhân hợp nhất thì hợp với truyền thống triết học lấy sức sống của thần thấm vào mọi lãnh vực và bao hàm, hoà hợp mọi tầng lớp vạn vật để tiếp tục hoá sinh muôn loài muôn vật và hướng về chân-thiện-mỹ viên mãn, như Phương Ðông Mỹ đã phát biểu một cách chí lý rằng: "sinh mệnh phổ biến của vũ trụ biến hoá không ngừng, lưu xuất vô cùng, mang thiện tính của nó đổ đầy nhân loại, đưa dẫn nhân tính tới cảm ứng tích cực thông hoà hơn. Tâm linh loài người không có gì là bất mãn, tồn dưỡng mà vô hại, tu tâm tích đức để tương hợp đức thiện của Trời, làm cho nhân tâm phát huy mạnh mẽ hơn, viên mãn hơn, thuần tính hơn. Trời với người hợp điệu, người với người tương ứng, người với vật hoà nhịp. Nơi nơi đều thể nghiệm thấy Nhân, đều tiếp tục thiện tính, đều lấy tích nghĩa, sinh thiện làm then chốt".
Thực sự thần học Trương Xuân Thân đã phát huy "Thần học bí tích" trên quan điểm triết học Phương Ðông Mỹ mà ông đổi thành "phạm trù Nhất Thể tính". Qua đó ông đã nhấn mạnh cộng đoàn tính của giáo hội, bao gồm cả thừa tác viên, lẫn người nhận phép bí tích, mà còn hơn thế nữa cả cộng đoàn dân chúa với đầy tính năng động và hỗ tương. Cộng đoàn dân Chúa như vậy đã nhận ra ân sủng bí tích liên hệ mật thiết với cuộc sống, kết hợp họ thành một, hơn là đóng khung trong một nơi chốn hay thời gian nhất định. Nói tóm lại, phạm trù Nhất Thể tính này đã đi từ gốc của sức sống và từ đó lưu xuất và liên hợp thành một: Ðức Kitô là bí tích của Thiên chúa, Giáo hội là bí tích của Ðức Kitô và cả người ban lẫn người nhận bí tích không phải là "đối nhân" nữa, nhưng là một "biến cố hiệp nhất" nên cần cả hai bên. Sự hoà điệu và hợp nhất này qua giáo hội tới thế nhân. Quan điểm này đã được đồ đệ ông phát huy trong những lãnh vực thần học khác như tu đức học, nghi lễ học? v.v?
Rất tiếc, mặc dù
ông bắt đầu nghiên cứu
đưa triết học "khí" vào thần
học để tìm ra sự liên quan
giữa "Thần Khí" và Thánh Thần,
nhưng chưa quán thông được,
nên "Nhất Thể tính" của ông
vẫn còn dẫm chân trên "phạm
trù", hơn là "sinh lực". Có lẽ
đây là phần mà Hoàng Sĩ
quí có thể bổ túc thêm để
kiến tạo một hệ tư tưởng
hợp hơn và sinh động hơn cho
thần học bản vị hoá Việt Nam
chăng?
Khách quan mà nói, cho đến nay chiều kích lịch sử tính vẫn còn tương đối xa lạ với triết học đông phương, vẫn chưa hoà nhập vào hệ tư tưởng của triết Trung Hoa nói riêng. Ðó là điểm mà Hoàng Sĩ Quí tuy không gọi tên lịch sử tính ra, nhưng đã ý thức và khai quật nó như một "đại ký ức" của văn hoá Việt Nam, mà ông gọi là "tầng nền tâm hệ Việt", một tầng lớp tiền ý thức không những bắt rễ từ lịch sử xa xôi, nhưng luôn cộng tồn, và tiếp tục trong mỗi hành vi ý thức. Lớp tiềm thức này rất dầy và rất phức tạp vì nó bao gồm và hợp kết những mảng tri thức khác nhau, từ văn hoá bình dân tới văn hoá trí thức. Tiềm thức này càng phong phú, khi nó có một cội rể đa nguyên và được lịch sử thăng trầm tôi luyện.
Hoàng Sĩ Quí minh chứng tâm thức người Việt là sự giao hoà của hai nền văn minh lớn và cổ điển Á Châu: Văn hoá Trung Hoa và văn hoá Ấn. "Văn hoá cây cung" (với những đặc trưng như dùng quốc, xâm mình, ăn trầu, nhuộm răng đen, búi tóc củ hành, chế độ mẫu hệ?) đã hoà đồng với tư tưởng gốc tôn giáo Bí Mật (Ấn Ðộ) và gốc tôn giáo Khôn Ngoan (Trung Hoa) thành nền tâm linh người Việt. Ở đây, ông đã kéo chúng ta chú ý tới khía cạnh Aán tính quan trọng của văn hóa Việt Nam, một khía cạnh huyền bí bổ túc cho sự khôn ngoan siêu hình. Là một chuyên gia triết Aán Ðộ, ông đã phân tích tỉ mỉ sự tương đồng giữa những di tích được khoa khảo cổ khám phá và những phong tục tôn giáo, những kiểu kiến trúc có liên quan tới Aán Ðộ giáo và Phật giáo. Và sau một loạt chứng cớ, ông đã kết luận: "Xem như thế, rõ ràng Ấn giáo dưới hình thái của thời Mahâbbârata (đầu công nguyên trở về trước) đã được truyền bá sâu rộng khắp vùng Ðông Nam Á, khiến cho những sóng người Ấn Ðộ đến sau (nhất là vào thê kỷ IV-V) đã không thay đổi nỗi tình trạng ấy".
Trong phần thảo luận văn hoá Trung Quốc, ông cũng đã nhắc qua tới những điểm quan trọng của triết học vũ trụ quan hài hoà và đặc tính nhân sinh như chính tâm và thành ý, cũng như nhân, trí dũng và trung dung?v.v.. Có lẽ nhìn thấy nhu cầu của xã hội Việt Nam hiện tại, nên ông đặc biệt luận chữ "Thành" như căn bản để kiến tạo sự liên quan với Trời, liên đới với người và hòa hợp với vạn vật. Ông đưa chữ "Thành" vào chiều sâu của tâm thức và coi như một thành tố quan trọng và tiêu chuẩn của "nhận đồng tính" nơi cá nhân hay tập thể. Và ông kết luận: "Cho nên, đức thành không những là nền tảng của đời sống luân lý, nó còn là căn bản cho mọi quân bình tâm lý nữa. Thành cho đến cùng - - tôi có ý nói sự thuần phác, tinh thần xích tử - sẽ mang ý thức đến gần vô thức, tạo nên sự thông suốt giữa hai bên. "Ông cũng không quên khía cạnh cộng đoàn tính của thành là "Nhân", quan điểm thuần phác tính của thành là "Ðạo". Theo ông, chữ thành cũng trở thành tâm điểm quan trọng để xây dựng một gia đình Việt công giáo, để phát huy tinh thần hiếu (đối với bậc cha mẹ) và để (đối với vai anh chị em), một căn bản để cứu vãn tình trạng xã hội đang bị những cơn lốc lừa đảo, tham u làm suy sụp, thoái hóa.
Nói tóm lại, bên
cạnh "phạm trù nhất thể tính"
của thần học gia Trương Xuân Thân,
như là mặt minh bạch của lý tính,
một hệ tư tưởng kết tinh tính
nhất thể của tư tưởng Trung
Hoa, chúng ta cần một tâm hệ Việt
ăn rể sâu trong tiềm thức tập
thể hay cá nhân. Như vậy căn gốc
của Thiên-Ðịa-Nhân hợp nhất
không những chỉ ăn rễ nơi
hình ảnh tượng trương của
các "thánh nhân", mà còn qua sự
linh ứng từ vô thức, từ
ngoại lý, từ siêu lý. Ở
đây, trong đường hướng
đi tìm một viễn tượng cho
thần học bản vị hóa Việt Nam,
chúng ta không thể không chú trọng
tới khía cạnh văn hóa bình
dân Việt Nam, một phạm vi đặc thù
và rất phong phú, mà giáo hội
địa phương chưa nhận ra gía
trị quan trọng, vàchưa cổ võ đúng
mức, để khám phá và
đưa những kho tàng khôn ngoan mà
tiền nhân để lại vào trong suy
tư thần học và nền giáo dục
nhân bản. Với cái nhìn tổng
hợp như vậy, chúng ta có thể
dễ phát hiện vai trò của Thánh
Linh trong cuộc sống con người và
trong mọi hoạt động của hợp
nhất.