Lễ Nghĩa Trong Nền Ðạo Ðức Khổng Mạnh

Gs. Trần Văn Ðoàn

Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


2. Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn [5]

 

Sáu chữ trên không có xa lạ gì với người Việt chúng ta. Chúng đã biến thành những khẩu hiệu nằm trên đầu môi ngọn luỡi của các nhà sư phạm, của các bậc phụ huynh, của nhiều vị "dân chi phụ mẫu", và đôi khi cũng là chính sách của nhà nước nữa. Chúng ta cũng không lạ lẫm gì khi mà hầu hết những tác phẩm thi ca kinh điển của những bậc đại nho đều ca tụng và nâng lễ nghĩa lên thành một đức tính, tương đương với tam tòng tứ đức, đôi khi lại còn hơn thế nữa. Nguyễn Du coi lễ như là quy tắc, trong khi Nguyễn Ðình Chiểu lấy chữ lễ làm nòng cốt của nền tư tưởng đạo đức. Trong Lục Vân Tiên, cụ đồ họ Nguyễn nhắc đi nhắc lại không biết mệt cái chữ lễ mà cụ coi như là khuôn vàng thước ngọc đo cái giá trị làm người. Nói một cách khác, nhà thi sĩ mù lòa chất phác này đồng nghĩa lễ với luân thường đạo lý, và thường thì coi lễ như là nền tảng của đạo đức. Qua câu thơ "Thôi thôi, ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái ta là phận trai", ta nhận thấy một cách rõ ràng là cụ đồ họ Nguyễn đã đồng hóa lễ trong việc đối xử giữa trai-gái với quy luật "nam nữ thọ thọ bất thân" của thời Hán. Thực ra, cụ đồ Chiểu đã phản ánh cái tâm thức chung coi lễ không khác chi là quy luật của người bình dân Việt: "Cá không ăn muối cá ươn - Con không giữ lễ (nghe mẹ) trăm đường con hư" mà thôi. Thế nên, "tiên học lễ, hậu học văn" đã trở thành một quy tắc tất yếu, suy diễn từ lối nhìn bình dân như vậy.

Lối suy tư coi lễ là lề luật [6] có phải là lối suy tư đại biểu duy nhất của Việt Nho hay không, đây là một điểm đáng được tranh luận. Theo thiển kiến của chúng tôi, quan niệm này chỉ đúng được phần nào, bởi lẽ câu hỏi quan trọng hơn nằm ở sau, đó là, nếu lễ là quy luật, thì đó là qui luật gì? Nếu nó chỉ là pháp luật, hình luật, thì lễ chưa phản ánh được cái lễ nghĩa của người Việt, nhưng nếu lễ là quy luật sống, thì nó mới thực là lễ nghĩa.

Như mọi người đều thấy, ngay từ thời thơ ấu, chúng ta đã được đào tạo phải giữ đạo nghĩa, mà đạo nghĩa thường không phải chi khác hơn là chính lễ nghĩa. Lễ phép, lễ độ, lễ nghĩa, lễ nghi, lễ phục... là những quan niệm, hay nói đúng hơn là những quy luật (codes), những cách thế (manners), những biểu tượng (expressive symbols), những chuẩn mực (criteria) đo lường con người Việt. Chúng ăn sâu vào trong tâm não, chúng nằm chặt trong mạch máu, đến độ chúng ta đồng hóa lễ với giá trị, với nền đạo đức, và với tất cả cuộc sống của người Việt. Chúng ta đánh giá một người, một phụ nữ, một quan chức, một giáo chức và ngay cả một người học sinh tùy theo hành vi lễ độ, lễ phép của họ. Ta xem họ có giữ lễ và hành vi, ngôn ngữ, cách xử thế của họ có đúng lễ hay không: cha phải ra cha, con phải ra con, thầy phải ra thầy, trò phải ra trò. [7] Chúng ta kính trọng một người nào đó cũng là vì họ giữ lễ giữ nghĩa. Chúng ta coi thường những người "vô lễ", "vô phép, vô tắc", "vô lương", những kẻ "bất nghĩa", "bất tín", "bất trung", "bất hiếu", "bất nhân", [8] những người mà ta thường đùa cợt cho là người không ra người, ngợm không ra ngợm. [9]

 

Chú Thích:

[5] Tinh thần câu này tuy vốn rút từ Lễ Ký. Nhưng trên thực tế, lối giải thích tầm quan trọng của lễ vượt khỏi văn là một lối lí giải cưỡng ép. Trong tư tưởng của đức Khổng, lễ, nhạc, văn, thi... tất cả đều có một tầm quan trọng gần như ngang nhau, bởi lẽ chúng biểu tả bản tính chân thật (tức bản thể) của con người. Trong Lễ Ký (Lễ Vận) có câu: "Nhân tính giả, thánh vương chi điền dã tu lễ dĩ canh chi" (Lễ Vận, 4:7 (12) (Bản tính con người vốn (tình cảm), thánh vương cũng vậy, nên cần phải có lễ để cải đổi). Ngoài ra trong Luận Ngữ, ta thấy cũng có những câu mang ý nghĩa tương tự, nói lên tầm quan trọng của cả văn lẫn lễ, như (LN 6:25 (Ung giã), LN 8:8 (Thái Bá), vân vân): "Tử viết, "Quân tử bác học ư văn, ước chi dĩ lễ, diệc khả dĩ phất hạn hĩ phù?" (Người quân tử học rộng về văn chương, ước thúc bằng lễ, cũng khả dĩ không trái đạo chăng). Vào đầu thế kỷ 20, nhiều nhà tân học đã có một thái độ quá khích, tìm cách phá bỏ lễ nghĩa, bởi vì họ cho rằng, nghi lễ, lễ nghĩa chỉ là nhưng sản phẩm rác rưởi của phong kiến. Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976) chủ trương phá đổ nghi lễ, tập tục cũng như nền đạo đức cổ truyền. Xin tkh. Bill Brugger, China: The Impact of the Cultural Revolution (London: Croom Helm, 1978). Gần hai thập năm qua, sau sự đổ vỡ của chủ thuyết họ Mao, và với chính sách đổi mới, nhà nước Bắc Kinh đã tái nhận ra tầm quan trọng của lễ nghĩa. Xin tkh. Ding X.L., The Decline of Communism in China: Legitimacy Crisis, 1977-1989 (Cambridge - New York: Cambridge University Press, 1994), cũng như Zhang Wei-wen, Ideology and Economic Reform under Deng Xiao-ping, 1978-1993 (London - New York: Kegan Paul, 1996) và Kalpana Misra, From Post-Maoism to Post-Marxism: The Erosion of Official Ideology in Deng's China (London: Routledge, 1998). Tại Việt Nam gần đây, chúng ta thấy có chính sách khôi phục lại truyền thống. Khẩu hiệu "tiên học lễ hậu học văn" tái xuất hiện trên các bức tường, cổng của các trường tiểu học. Xem ra lại có vẻ còn nhiều hơn cả vào thời cố tổng thống Ngô Ðinh Diệm (1900-1963), một nhà nho từng bị phê phán (hơi sai) là thủ cựu, quan lại. Thực ra, họ Ngô rất trọng lễ, nhưng không thủ cựu.

[6] Ða số các nhà ngữ học lí giải chữ lề luật theo nghĩa là lề (một cái góc, hay cạnh của áo, quần; thí dụ lề áo. Câu tục ngữ: áo rách giữ lề) và luật. Theo thiển kiến cuả người viết, "lề" nơi đây có lẽ từ "lễ", đọc trại ra, y hệt như "phép" trại ra từ "pháp". Ngoài ra, ngay cả chữ "lẽ" như "lẽ phải" có thể cũng do sự đọc trại từ "lễ" (như chúng tôi sẽ bàn sau). Do đó, "lề luật" có lẽ là "lễ luật". Khi những quan niệm nho học du nhập vào trong tư tưởng dân gian, người bình dân Việt thường áp dụng vào cuộc sống thường nhật, và dùng những thí dụ cụ thể để nói lên tầm quan trọng của chúng: "áo rách giữ lề" có nghĩa là, cho dù có nghèo tới đâu, thì vẫn phải giữ lễ giữ nghĩa. Ðó là tinh thần của câu nói trong Mạnh Tử (Thiên Ðằng Văn Công, hạ): "Phú qúy bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu" (Giầu có mà không bị nhục dục lôi cuốn, nghèo nàn nhưng không bị mua chuộc, uy quyền không thể áp bức được, như vậy mới là một người xứng đáng).

[7] Luận Ngữ, (Nhan Uyên) 12:11: "Tề Cảnh Công vấn chính ư khổng Tử, Khổng Tử đối viết, "Quân quân thần thần phụ phụ tử tử..." (Cảnh Công nước Tề hỏi Khổng Tử, Khổng Tử trả lời, nói rằng: "Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con")

[8] Ðây là những chuẩn mực các sử gia Việt dùng để phê phán giới lãnh đạo hay chính giới trí thức. Cho dù Nguyễn Ánh có công lao thống nhất sơn hà, vua vẫn bị chê bai là "bất trung", "bất nghĩa" (tội cõng rắn cắn gà nhà). Dẫu Hồ Quý Ly có rất nhiều công trong việc cải cách, nhà Hồ vẫn bị coi thường vì cái tội "bất nghĩa" này. Giới tướng lãnh tham gia đảo chánh lật đổ chính phủ họ Ngô vẫn bị dân chúng khinh bỉ goị là "tướng mãnh" vì những tội "bất trung", "bất tín", "bất nghĩa" và "vô lễ" của họ, mặc dù họ ra sức bào chữa, hợp lý hóa hành động của mình như trường hợp Trần Văn Ðôn, Tôn Thất Ðính và nhất là Ðỗ Mậu và Dương Văn Minh.

[9] Hay như ta thấy trong câu thơ châm biếm: "Nhà trống ba gian, một thầy một cô một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi."

 

Trần Văn Ðoàn

Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan

04. 10. 2003

 

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page