Cô Ðơn Và Sự Tự Do

(Những Ðoản Khúc Suy Niệm và Cầu Nguyện

của Linh Mục Nguyễn Tầm Thường, SJ.)

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Ðể Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn

 

Bỗng nhác thấy bóng ngựa phóng qua. Kẻ trên lưng ngựa chính là người bạn thủa xưa cùng nhau tầm thầy học đạo. Cất tiếng gọi, mà bóng ngựa cứ nước kiệu phóng đi như bay. Băn khoăn về người bạn cũ thủa nào. Nhà đạo sĩ lên đường xuôi phương nam tìm ngọn núi có am thất của kẻ đồng môn. Tới nơi, nhân gian cho ông biết am thất không còn ai trông coi. Kẻ trụ trì đã chết rồi. Tính ra, đúng ngày mà có bóng ngựa đi qua.

Ngày xưa hai người có một lời hứa: Ai chết trước sẽ về báo cho kẻ ở lại biết thế giới bên kia thế nào. Phải chăng bóng ngựa là hồn người bạn cũ?

Ðêm đó, bên rừng am thất, bỗng có người cầm tay nhà đạo sĩ dắt đi. Quay nhìn, chính hồn người bạn cũ hiện về!

- Này, bạn cũ, xin nói cho tôi biết thế giới bên kia thế nào.

Hồn người chết lẳng lặng kéo nhà đạo sĩ theo mình. Qua khu rừng, rồi một hoang địa. Có tiếng nói từ đâu đó:

- Ði về phía đông mươi trượng, vào đường hầm. Ði xuống trăm bước. Ði lên. Về phía nam.

Thoát chốc, hồn người bạn cũ biến mất, bất ngờ như khi hiện đến.

Mơ hồ như trong giấc ngủ mộng mị. Con đường về thế giới bên kia bắt đầu. Hồn nhà đạo sĩ theo tiếng gọi huyền bí dẫn đi. Qua nhà, qua cửa. Ông nghe có tiếng cầu kinh. Trời đổ mưa. Ngoài cánh đồng có người làm việc. Hoàng hôn lên, bình minh xuống. Bé thơ ngồi xem mẹ xay bột bên khuông cửa. Êm ả, một đời sống thanh bình. Ông hỏi tiếng vọng:

- Thiên đàng đâu?

Một quang cảnh tương tự như cuộc sống bình thường chung quanh ông trên dương thế đang diễn ra. "Ðó, ông đang đi qua thiên đàng đó." Nhà đạo sĩ không thấy chi thần tiên như người ta nói, không có các vũ công vũ khúc nghê thường. Không có yến tiệc linh đình. Một sinh hoạt như cuộc

sống trên dương thế của ông thôi. Kì lạ quá. "Thiên đàng có vậy thôi sao? Còn hỏa ngục thế nào?" Ông ngạc nhiên về những hình ảnh thiên đàng, hỏa ngục mà ông vẫn dạy trong những bài thuyết giảng của mình.

Qua thiên đàng rồi, tiếng vọng dẫn ông sang một thế giới khác. Chập chờn, ông lạc vào một vùng như hoang tưởng. Chung quanh ông là những tòa nhà sang trọng. Có những toán người ca hát nhẩy múa thâu đêm suốt sáng. Yến tiệc bày biện tưng bừng. Chỗ nào ông cũng thấy xa hoa, phấn hương. "Có phải đây mới là thiên đàng chăng?" Ông ngạc nhiên không hiểu nơi này là gì mà hạnh phúc phúc thế. Nhưng có tiếng bí mật trả lời ông: "Không! đây là hỏa ngục!" Qua sảnh đường, ông nhác thấy có người quen, chính hồn người bạn cũ năm xưa! Ông ta đang ngậm miệng cố nuốt những dòng rượu chảy nhễ nhãi. Chung quanh sàn nhà cẩm thạch, đoàn vũ nữ nhẩy múa. Nhóm người khác đang chia nhau tiền bạc. Tiền đâu mà nhiều thế. Họ đếm thâu đêm suốt sáng không hết. Chỗ nọ, đoàn nhạc công mồ hôi nhễ nhãi oằn oại trên tiếng đàn. Họ ăn chơi không ngơi nghỉ. "Thế này nghĩa là gì? Ðâu là thiên đàng? Ðâu là hỏa ngục?"

* * *

Ðược giác ngộ, nhà đạo sĩ mới thấy những gì hiểu về thiên đàng, hỏa ngục của ông xưa kia non nớt quá. Ông vẫn nghĩ rằng thiên đàng là nơi không phải làm việc, chỉ có ăn chơi, tung tăng nhàn hạ suốt ngày. Hỏa ngục là nơi cực hình, không có ăn chơi, chỉ quần quật làm việc. Bây giờ trái ngược lại. Nhưng ông đã hiểu. Cái bi thương hệ tại là thiên đàng có tự do, hỏa ngục là đường một chiều, không có chọn lựa.

Ông thấy người bạn cũ sống trong căn nhà lộng lẫy, không phải làm việc gì, chung quanh là nhạc khúc dập dình. Mới đầu ông nghĩ thế thì hạnh phúc quá. Nhưng hồi lâu, lâu nữa, một ngày, hai ngày, rồi một năm, hai năm, nếu dòng rượu cứ suốt ngày đêm tuôn chảy và người bạn cũ của ông cứ phải oằn oại uống như thế suốt năm này qua năm nọ thì sao? Ông ớn đến lạnh người. Nhìn chung quanh, ông thấy quả là một thế giới kinh hoàng. Tốp người đang khiêu vũ kia cứ oằn oại trong điệu nhạc, ngày này qua ngày nọ. Họ không được đi đâu, không phải làm gì, đời họ bây giờ chỉ là khiêu vũ, ngày, đêm. Ông đứng nhìn những khuôn mặt thất thần. "Họ đã ở đây bao lâu? Họ đã phải đếm tiền thế kia từ thế kỉ nào?" Chung quanh ông không còn là hạnh phúc vì tiếng đàn, vì những khăn bàn bằng lụa quý, những chén ngà chạm vàng nữa. Ông thấy một thế giới cô độc khủng khiếp. Nhìn người bạn cũ, ông thấy đôi mắt đỏ ngàu, lờ đờ. Môi miệng sưng lên, nhưng ông ta không nghỉ được, dòng rượu cứ chảy và ông cứ ừng ực mà uống.

* * *

Những ngày còn lại cuối đời của nhà đạo sĩ, ông nhìn lại những lời giảng thuyết của ông ngày xưa thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ. Ông thấy những suy tư ấy non yếu quá. Trầm ngâm hơn, ông viết cho người môn sinh của mình về thiên đàng và hỏa ngục như sau:

Con thân mến,

Thiên đàng là nối tiếp hạnh phúc chúng ta sống trên cõi trần. Hỏa ngục là xây tiếp những nô lệ nội tâm chúng ta đang xây dở dang.

Con đừng cầu xin Thượng Ðế cho con bất hạnh đời này để được hạnh phúc đời sau. Con phải nỗ lực vươn lên mà loại bớt bất hạnh. Thượng Ðế không muốn con người đau khổ. Ðến trong trần gian, Ðức Kitô cho người đói ăn, người què đi, người mù nhìn thấy, người phung hủi được sạch, người chết sống lại. Ðau khổ, tự nó là điều xấu. Ngài không muốn. Con hãy xin Thượng Ðế cho con hạnh phúc đời này, như hình ảnh báo trước một hạnh phúc thật bao trùm đời sau. Và hãy hết sức làm đẹp thế giới con đang sống chung quanh bằng con đường xây dựng hòa bình, công chính, yêu thương để con người cảm thấy vị ngọt hạnh phúc mai sau sẽ dạt dào thế nào.

Con đừng vì lười biếng không nỗ lực xây dựng cuộc sống hạnh phúc hôm nay rồi tự an ủi hứa thiên đàng là hạnh phúc tương lai.

Hỏa ngục không là hình phạt Thượng Ðế sắm sẵn như một nhà tù xây nên rồi chờ xem ai lỗi phạm thì bắt vào. Hỏa ngục cũng giống thiên đàng, cuộc sống ấy là kéo dài những dở dang của con người trong cuộc sống hôm nay. Nếu dang dở ấy là hạnh phúc thì con sẽ hạnh phúc tiếp đời sau, đó là thiên đàng. Nếu dang dở ấy là bất hạnh thì đời sau là bất hạnh tiếp cái dang dở ấy, đấy là hỏa ngục. Con hoàn toàn lựa chọn cho mình. Căn nhà hạnh phúc con đang xây dở thì khi chết rồi, con sẽ tiếp tục xây hạnh phúc ấy. Con xây ngục thất, thì khi chết rồi con sẽ phải tiếp tục xây cái ngục tù dở dang của bất hạnh đó.

Tội là con đưa một đam mê lên thành lí tưởng để theo. Hạnh phúc là sự hài hòa của mọi thứ say mê.

Tình yêu, tình dục, lòng thèm muốn, ghen tương, nhan sắc, tiền bạc, giận hờn, sức khỏe, trí tuệ, vật chất, tinh thần... tất cả làm nên con người chúng ta. Hạnh phúc là khi ta quân bình và hài hòa nó. Chẳng hạn như nhan sắc, đó là nghệ thuật, nó đem hạnh phúc cho người, cho mình. Nhưng nó phải hài hòa trong nhân đức, thật thà, đoan trang. Khi con người để nhan sắc thành lí tưởng cao nhất để theo thì giống như một bức tranh thêu, nhan sắc sẽ tiêu diệt những đường chỉ thêu khác. Lúc ấy lòng thương xót sẽ chết trước cửa nhà người nghèo khó, lòng bao dung chìm dần, niềm tự kiêu dâng lên. Con sẽ dùng mọi tiền bạc cho tấm thân thôi, những tốn phí có thể lỗi công bình, vì con không còn lòng thương xót cho những kẻ phải sống không đúng phẩm giá con người chỉ vì nghèo. Không có một chút ghen, có lẽ cuộc sống cũng khô khan lắm. Không có tình dục, con người sẽ đi về đâu. Giận hờn cũng thế, nó cho người ta những giây phút "đau thương êm ái." Nhưng chúng phải hài hòa.

Con thấy đó, hỏa ngục là nơi không còn hài hòa. Kẻ nhẩy múa là thâu đêm suốt sáng nhẩy múa. Kẻ uống rượu là phải uống triền miên. Khi sống, họ chọn một đam mê rồi đưa lên thành lí tưởng để theo, thì khi chết họ cũng theo lí tưởng đó mà sống. Hỏa ngục hệ tại là đó.

Tội làm con người mất hạnh phúc. Nhưng mất hạnh phúc bằng cách nào? Tội là thần tượng một đam mê. Khi một đam mê lên cao thành thần tượng thì nó thống trị mọi suy tư khác. Kẻ ấy lúc nào cũng bị ám ảnh bởi đam mê đó. Ðam mê độc tài này đẩy con người vào hành động. Lúc ấy, con người mất tự do. Bị đam mê điều khiển thì cuộc sống thành đường một chiều. Trên đường một chiều này, hễ ca múa là thâu đêm suốt sáng ca múa. Hễ say đắm tình dục thì ngụp lặn trong dục tính. Hài hòa bị tan vỡ. "Nô lệ là kẻ để cho bất cứ sự gì đó thống trị mình" (2 Phêrô 2:19).

Hạnh phúc, đau khổ là những định nghĩa đơn sơ thôi. Thiên đàng và hỏa ngục ở khắp nơi trên cõi thế này. Bởi đó, con không cần mong người sau hiện về nói cho biết. Chính Kinh Thánh cũng chẳng cho ai từ cõi chết về để nói về thiên đàng, hỏa ngục. Ðây là thế giới riêng tư của mỗi người, thì làm sao con biết thiên đàng của kẻ khác được? và con cũng đâu cần điều ấy, phải vậy không? Cúi hỏi tâm hồn mình, nhìn xem có đam mê nào con đang đưa lên thống trị suy tư, hành động trong đời sống của con. Nơi đó con sẽ thấy thiên đàng hay hỏa ngục.

* * *

Khi của cải bị cô lập một mình, xa cách sự độ lượng, lòng thật thà, tâm tình bao dung, thì nó không còn bè bạn. Nó trở nên độc tài. Nó trả thù lại kẻ đã cắt đi những liên hệ mà nó phải có. Nghi ngờ đi với thành thật và độ lượng sẽ thành khôn ngoan. Có sức mạnh nhưng thiếu tâm hồn sẽ thành hung bạo. Tình dục đi với lề luật sẽ phong phú tình yêu. Tự bản chất, tất cả nó đã được sinh ra trong những liên hệ hài hòa ấy. Khi ta chọn một mà thôi đời sống sẽ nghiêng đổ.

Nhà đạo sĩ thấy nơi ông đi qua mà tiếng nói nhiệm mầu bảo ông là thiên đàng, có gì đặc biệt đâu. Cũng đồng lúa. Có mưa và nắng. Có người tát nước bên dòng sông. Chính trong cái bình thường ấy mà ông đã đi tìm định nghĩa thiên đàng như một thế giới xa lạ, rực rỡ xa hoa. Ông không nhìn thấy thiên đàng hay hỏa ngục ngay dưới chân mình. Trong cuộc đời, bao người đã đi hết miền đất này tới miền đất kia tìm thiên đàng hạ giới. Nhưng họ cứ tìm mãi mà đời cứ mênh mông, không gặp.

Bây giờ ông hiểu í sâu xa mà tiếng nói nhiệm mầu dạy ông. Thiên đàng là sự tự do nội tâm. Ông đã viết xong lời cuối, muốn gởi người môn sinh. Ông muốn nhắc cho người môn sinh hỏa ngục là tiếp tục cái thú vui độc đoán lúc còn sống, như người mê rượu sẽ suốt ngày đêm phải uống rượu tiếp, người mê nhẩy múa sẽ suốt tháng cứ nhẩy múa liên miên, kẻ mê tiền thì khi chết rồi không được làm gì cả cứ đếm tiền hết năm này qua năm nọ. Ðọc lại những gì đã viết, ông chả thấy có gì mới cả. Kinh Thánh đã nói đến rồi. "Nếu họ không tin lời của Môsê và các tiên tri, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu" (Lc. 16:31). Rồi, ông lặng lẽ cất đi những gì đã viết, không gởi cho người môn sinh nữa.

 

Lm Nguyễn Tầm Thường SJ

 

(Trích tập suy niệm Mùa Chay và Con Sâu Bướm)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page