Suy Niệm Lời Chúa

Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Năm C

của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chúa Nhật Lễ Thánh Gia Thất Năm C

Ðể đảm bảo hạnh phúc cho gia đình

(Huấn ca 3,2-14; Côlôssê 3,12-21; Luca 2,41-52)

 

Phúc Âm: Lc 2, 41-52

"Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ".

Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết.

Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại.

Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói.

Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.

 

Suy Niệm:

Cổ tích vùng Bretagne, mạn Tây Bắc nước Pháp, kể lại câu chuyện sau đây: "Có một gia dình gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người say ngủ thì một trận giông bão chưa từng thấy xảy ra, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng bị lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi lềnh bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bồng đứa con. Nước càng lúc càng lên cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dần dần ngập thở và vô cùng mệt mỏi bà vợ cố giữ lấy hai cánh tay đưa con lên cao quá khỏi mực nước cho đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết chỉ mong có ai cứu được đứa bé. Vừa lúc đó có một thiên thần bay ngang qua trông thấy cái đầu đứa bé nổi khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm nhau cả cha mẹ lẫn đứa con. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được cứu sống".

Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội chúng ta là những gia đình què quặt, những gia đình tan nát vì nạn ly thân, ly dị và phá thai; những gia đình phân tán, chia ly vì chiến tranh, bạo lực và áp bức; những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, với đời sống vật chất kinh tế khó khăn eo hẹp hay vì nạn cờ bạc, rượi chè, ma túy thuốc phiện và ham mê buông thả tình dục...

Và những người phải trả giá mắc nhất do hậu quả của các khủng hoảng nặng nề là trẻ em. Là giới trẻ, làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các gia đình, tế bào nòng cốt của xã hội bệnh hoạn như thế?

Trong ngày lễ Thánh Gia, Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh, trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương. Ðó là mẫu gương tổ ấm yêu thương của gia đình Nagiarét, gia đình của Chúa Giêsu với Mẹ Maria và thánh Giuse.

Chương 3 sách Huấn Ca đã nhắc lại điều răn thứ tư của Mười điều răn, dạy con cái phải tin yêu và thảo hiếu với cha mẹ và những lý do luân lý tự nhiên với câu ca dao Việt Nam:

"Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".

Sách Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo của thái độ hiếu kính cha mẹ, những người đã dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành dưỡng dục chúng ta, có giá trị đền bù tội lỗi chúng ta đã vấp phạm. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khẩn lên Ngài.

Suy tư trên đây là một ví dụ điển hình cho thấy để sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Huấn Ca đã biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm của nhân loại nằm trong chính cái tầm thường trong cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời, Người hiện diện trong cái tầm thường mỗi ngày của cuộc sống chúng ta, bởi vì Người đã sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người và chia sẻ mọi niềm vui, mọi âu lo, khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại với đôi mắt của lòng tin, thì mọi sự trong thế giới hữu hình đều được biến đôi mắt của lòng tin, thì mọi sự trong thế giới hữu hình đều được biến đổi là điều nói lên sứ điệp Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta. Một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiêng linh của Thiên Chúa.

Sự thật này được nêu bật trong thánh vịnh 128. Ðây là bí quyết tạo dựng hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc, cũng là điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi thành phần chỉ ích kỷ sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban, quí trọng và lo lắng cho những người khác.

Tình yêu đích thực bao giờ cũng sinh hoa kết trái và gia đình chỉ là gia đình khi có cha, có mẹ, có con cái. Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt và bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn bã và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần kia, nhưng tình yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón, vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Lấy nhau vì tiền, vì lợi lộc, vì chức tước và địa vị, sẽ không bao giờ tạo dựng hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ bể. Nhưng tình yêu chân thành không thôi cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình, cần phải có các nhân đức Kitô và nhân đức xã hội tự nhiên nữa.

Trong chương 3 thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày, trước khi đề cập các bổn phận của các thành phần khác trong gia đình. Thánh Phaolô nhắc cho mọi người biết một số bổn phận căn bản phát xuất từ lòng tin Kitô. Là những người được Thiên Chúa chọn làm con cái Ngài, thành phần sống động của Giáo Hội và là công dân của Nước Trời, hơn ai hết, Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu Kitô sống tình yêu thương bác ái, trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì chính tình yêu thương là thái độ sống nền tảng khiến cho người Kitô hữu thật sự giống Thiên Chúa và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội. Và do đó thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày mặc lấy các tâm tình của lòng thương xót nhân từ, khiêm tốn, hiền hậu và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu không khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng xót thương và nhân từ, chúng ta sẽ dễ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn, bắt đầu bằng chính các thành phần trong gia đình mình, giữa vợ chồng con cái, họ hàng bạn bè với nhau.

Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra các tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta, chớ không luôn luôn cho mình là hay, là giỏi, là nhất, hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác. Khi khiêm tốn chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, có khi còn tệ hơn họ nhiều. Chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bồi sửa chữa. Khi hiền dịu và kiên nhẫn, chúng ta không nóng giận, gay gắt với người khác, biết chịu đựng mọi thiếu sót sơ suất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng mọi thiếu sót và sai quấy của ta. Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và ơn ban cho mỗi ngày sẽ giúp chúng ta tập được các nhân đức trọn lành này.

Sau khi khuyến khích mọi người, mỗi ngày hãy mặc lấy các tâm tình và tìm sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đưa ra một nguyên tắc xem ra đơn sơ nhưng thực hiện cho đúng thật là không dễ. Ðó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn. Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con cái phải thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ thì phải biết khoa sư phạm và tính tâm lý trong việc dạy dỗ, đối xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi để chúng chán nản ngã lòng. Có người coi các tôn ti trật tự trong các cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, tùy tiện, lỗi thời trong xã hội nam nữ bình quyền ngày nay, đặc biệt là trong liên hệ giữa chồng và vợ. Nhưng nếu chúng ta để ý nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng cho cuộc sống hằng ngày như thánh Phaolô đã nêu bật, thì sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương, thì tất cả mọi người đều yêu thương nhau không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là trong cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn, khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dầu có khủng hoảng và khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật và biết sống tình yêu thương đó cụ thể, thì sóng gió nào rồi cũng sẽ yên và con thuyền tổ ấm gia đình vẫn tiếp tục tiến tới.

Sống yêu thương, chân thành, quảng đại và vô vị lợi không phải là dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác. Sự thật này được minh chứng trong bài Phúc Âm thánh Luca. Sự thường, 12 tuổi vẫn còn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Nhân dịp lễ, gia đình Thánh Gia hành hương lên Giêrusalem. Năm ấy đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi trẻ Giêsu ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày đêm hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, thì hai ông bà thấy trẻ Giêsu đang đối chất với các tiến sĩ luật trong đền thờ. Cái im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa, nó vừa diễn tả nỗi lo âu thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn trọng sự tự do của Chúa Giêsu và chấp nhận sự kiện không thể giải thích được. Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do bí ẩn nào đó, khiến cho người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành sử này. Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất thường ấy, đồng thời nó minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, nhưng Chúa Giêsu đã ý thức được sứ mạng và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới khác và qua sứ mạng phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của con, nhưng Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và suy gẫm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy phải lâu dài và đau đớn. Và Mẹ chỉ tìm hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân thánh giá của người con yêu, trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương. Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo cha mẹ về Nagiarét, lớn lên trong khôn ngoan tràn đầy ơn thánh và sống yêu thương vâng phục các ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page