Những Người Lữ Hành Trên Ðường Hy Vọng
của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
13- Ðức Tin
1. Ðức tin Tiên Tổ
Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1533, Phúc Âm của Chúa đến Việt Nam cùng với Thánh giá Chúa. Biết bao tín hữu Chúa bị lưu đày, bị chiếm đoạt tài sản, lẩn lút sống trong rừng sâu nước độc, cam chịu mọi đau khổ để trung thành với Ðức tin. Cho đến cuối thế kỷ XIX, ta có thể tính được trên 130.000 đấng thuộc mọi thành phần đã được diễm phúc Tử Ðạo. Trong số đó có 117 vị đã được các Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X và Ðức Piô XII phong lên bậc Chân phước. Và ngày 19.6.1988 Ðức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã tôn phong các ngài lên bậc Hiển Thánh. Chúng ta có thể chia ra như sau:
* Ðời Trịnh Doanh 2 vị
* Ðời Trịnh Sâm 2 vị
* Ðời Cảnh Thịnh 2 vị
* Ðời Minh Mạng 57 vị
* Ðời Thiệu Trị 3 vị
* Ðời Tự Ðức 51 vị.
Thành phần các Thánh ấy:
* 8 Giám mục
* 50 Linh mục
* 16 Thầy giảng
* 1 Chủng sinh
* 42 Giáo dân.
Giáo Hội Việt Nam ta nghèo nàn không sánh được với các Giáo Hội ở Âu Mỹ, nhưng chúng ta cũng hãnh diện về lòng trung thành sắt son với Ðạo Chúa của Tổ tiên ta: Ba thế kỷ bắt bớ, tù đày và trên 130,000 Ðấng Tử Ðạo.
2. Trong bóng tối giáo đường
* Nhiều người nói: "Tôi có đức tin, tôi còn đức tin." Có lẽ "đức tin của giấy khai sinh" không phải đức tin của đời sống; ít người sống theo đức tin (ÐHV 274).
* Con đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái và trung thành (ÐHV 280).
* Thành thực cầu xin như các Tông Ðồ: "Xin Thầy thêm sức mạnh cho đức tin chúng con." (ÐHV 282).
Vào những buổi chiều tà nhà thờ vắng vẻ, thánh Phanxicô Salêsiô thường đến trước Chúa Giêsu Thánh Thể sốt sắng cầu nguyện.
Một hôm đang lúc mãi mê cầu nguyện thì ngài nghe tiếng sột soạt trong bóng tối. Tưởng là kẻ trộm, ngài vụt đứng dậy cất tiếng hỏi: "Ai?". Một bóng lạ mặt tiến đến gần ngài và nói: "Thưa Ðức Giám mục, con không có đạo, con nghe Ðức Giám mục giảng về Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng con không tin. Vì thế hôm nay, thừa lúc chiều tối, con lẻn vào nhà thờ, rình xem thử Ðức Giám mục viếng Mình Thánh Chúa như thế nào? Con thú thực: con đã thấy rõ đức tin của Ðức Giám mục. Giờ đây con vững vàng tin..."
3. Ba câu hỏi của giáo dân Nhật Bản
* Có gì hạnh phúc bằng tin tưởng mình đang ở trong Hội Thánh, ở đó những khắc khoải của tinh thần được giải quyết và quả tim đầy tràn hy vọng (ÐHV 281).
* Không ai bắt con chối Chúa, nhưng có thể bắt con đi ngược lại với đường lối của Chúa, "để giữ đức tin". Thực là mâu thuẫn: Ðức tin của con sẽ chết vì con sợ chết, sợ đau, sợ cực (ÐHV 286).
* Ðối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng; Chúa không phải là Ðấng bắt con phải kính mến, nói đúng hơn, Chúa là Ðấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô hạn (ÐHV 288).
* Chúa của người công giáo cao cả, không phải vì Ngài "toàn năng", nhưng vì Ngài "toàn ái". Ngài siêu việt vì Ngài là "Tình yêu tuyệt đối" (ÐHV 289).
Giáo hội Nhật Bản rất anh dũng. Họ có nhiều vị Tử Ðạo rất oanh liệt, chẳng hạn như thánh Phaolô Miki. Thánh Phaolô Miki và 25 bạn đồng đội đã bị bắt và bị treo trên những cây thập tự giá đối diện với bờ biển trên một chiếc tàu... Tuy phải gia hình đau đớn, Phaolô Miki và các bạn vẫn vui tươi và không ngừng giảng đạo cho những kẻ đến xem. Các Ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại, tha thứ cho những ai xỉ nhục và kết án mình. Thái độ khiến nhiều người đến xem điên tiết. Họ lấy giáo đâm chết tu sĩ Miki và các bạn. Hôm ấy là ngày 5.2.1597, ngay giữa một thời kỳ bắt bớ khá gắt gao, nhưng vẫn còn có tính cách địa phương.
Cuộc bắt bớ này, đến năm 1613 thì lan ra khắp mọi nơi và mọi chỗ. Năm đó chiếu chỉ của Daifusanna vừa được ban hành, Giáo Hội Nhật Bản liền rơi vào tình trạng nguy kịch. Dấu hiệu mở màn là cuộc xử tử công khai 50 Ðấng Tử Ðạo ở Nagasaki ngày 22.9.1622. Cuộc bách hại trở nên dã man và ác liệt trên đất Kiu-shu vào những năm 1636-1638 sau khi quân sĩ của Shimbara, một viên tướng Công giáo đứng lên bảo vệ đức tin và sinh mạng, bị đánh tan hoàn toàn: Gần 35.000 người Công giáo bị giết trong cuộc nổi dậy ấy. Các vua Nhật tưởng đã diệt được đạo Công giáo tận gốc rể. Bên ngoài, các nước cũng nghĩ rằng đức tin của giáo dân Nhật còn quá non yếu, khó đương đầu nổi cơn bắt đạo gắt gao như vậy, nhất là với chính sách bế quan tỏa cảng của các vua Nhật, chính sách cấm các nhà truyền giáo đặt chân lên đất Phù Tang. Thế nhưng thực tế lại khác.
Vì các Kitô hữu không có linh mục, không Thánh lễ, không thánh đường đó đã anh dũng ngoan cường sống đạo tới 200 năm sau, đến khoảng giữa thế kỷ XIX, thời Minh Trị Thiên hoàng, khi các nhà truyền giáo lại được đặt chân lên đất Nhật. Sau đây là một chứng tích hùng hồn cụ thể:
Một hôm, cha Petitjean đi đến giảng đạo tại Nagasaki trước mặt một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ toàn là lương dân nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi: "Có ai thắc mắc gì không?" Một người đưa tay chất vấn:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời cho chúng tôi có hay không?
- Tốt lắm, xin quí vị cứ đặt câu hỏi.
- Câu hỏi thứ nhất: Các ông có tin Ðức Mẹ đồng trinh không?
- Có.
- Câu hỏi thứ hai: Các ông có vâng lời và thông hiệp với Ðức Thánh Cha không?
- Có
- Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
- Có
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi toàn là Công giáo cả!
Cha Petitjean hết sức bàng hoàng, ngạc nhiên, như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm nhau, không cầm được nước mắt vì quá sung sướng cảm động. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bấy lâu nay có ai giảng dạy cho anh chị em không?
- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi!
- Vậy thì sao anh chị em còn sống đạo sốt sắng đến thế?
- Thưa Cha, đó là nhờ ông bà Tổ tiên chúng con truyền lại, sau là nhờ chúng con biết âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết yêu thương đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Nhưng tại sao anh chị em lại đặt cho cha ba câu hỏi vừa rồi?
- Thưa cha, vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà đánh giá xem họ có phải là những nhà thừa sai chân chính không. Nay chúng con quá đỗi vui mừng vì các cha đích thực là những người được Hội Thánh sai đến. Chúng con sẽ nghe lời các cha và giữ vững đức tin Tổ tiên chúng con truyền lại.
4. Gương sống đạo của Tổ tiên chúng ta
* Nắm vững đức tin, con phân biệt đâu là đường hy vọng của tâm hồn tông đồ, đâu là lối chết của thế gian (ÐHV 273).
* Các Tồng Ðồ đã khiêm tốn thuật lại trong Phúc Âm đức tin yếu hèn của họ, để chúng ta mạnh tin hơn (ÐHV 279).
* Con đừng giả vờ để thoát khó nguy. Con nhớ gương Êlêazarô: "Vì ở tuổi chúng tôi không nên giả vờ, kẻo nhiều thanh niên tưởng rằng Êlêazarô đã 90 tuổi đầu mà còn theo lối sống của dân ngoại. Rồi sự giả vờ của tôi để sống thêm một ít lâu nữa, tôi cũng làm cho chính họ lầm lạc, và vì thế, tôi sẽ chuốc lấy nhơ nhớp và ô danh cho tuổi già của tôi..." (ÐHV 285).
* Con phải can đảm để sống đức tin hàng ngày, bằng các thánh tử đạo can đảm để giữ đức tin (ÐHV 287).
* Sự cứu rỗi của nhân loại không phải là một "tổ chức", mà là một "mầu nhiệm", mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu chết sống lại (ÐHV 290).
Trên đây cha đã nhắc sơ đến sự hy sinh vì đức tin của ông bà tổ tiên chúng ta, nói đến số lượng và thành phần của các thánh Tử Ðạo. Nay mô tả chi tiết các hình khổ đã dành cho các ngài. Như nào là có những giáo xứ (ở Quảng Trị) bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả. Nào là cả Nhà Dòng Mến Thánh giá Phan Rang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống đi. Nào là có những thiếu nữ Công giáo non yếu bị đưa về Huế phạt gia hiệu, phơi nắng ngày này sang ngày khác rồi chặt một ngón tay trước khi đánh đập và tha về. Nào là gương 12 vị Chánh trương, trùm trưởng khắp nơi bị đưa về Huế, giam trên thành Lồi (bức thành người Chàm xưa đắp lên để đánh với người Việt Nam, xa thị xã độ 10 cây số). Các ông phải bứt cỏ nuôi voi cho nhà vua cho đến khi chết dần chết mòn tất cả; nay 12 ngôi mộ của các ông vẫn còn nguyên vẹn dưới chân thành ấy.
Và sau đây, cha xin ghi lại vắn tắt gương sống của một vài vị để soi chiếu cho chúng ta:
Những vị có chức vụ trong nhà nước hoặc quân đội như:
- Thánh Micae Hồ Ðình Hy, ngài làm quan Thái bộc tới Hàm- tam- phẩm và đã chịu trảm quyết thời Tự Ðức tại Huế 22.5.1857.
- Thánh Phaolô Tống Viết Bường, chức Thị vệ. Ðã chịu trảm quyết ngay trước cổng nhà người con gái ngài, ngày 23.10.1833, tại Huế, triều vua Minh Mạng.
- Thánh Phanxicó Trần Văn Trung, Cai đội. Ðã chịu trảm quyết tại Huế ngày 6.10.1858, dưới triều Vua Tự Ðức.
- Thánh Giuse Lê Ðăng Thị. Cũng là Cai đội. Chịu xử giảo tại Huế, ngày 24.10.1860, dưới triều vua Tự Ðức.
- Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, một lý trưởng gương mẫu liêm khiết. Ngài đã bị xử trảm tại Nam Ðịnh, ngày 12.8.1838.
Các vị này là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với Tổ quốc và nhân dân, nhưng chỉ vì không bỏ đạo mà phải chịu án tử hình.
* Những người giáo dân lãnh trách nhiệm tông đồ trong hội đồng giáo xứ như:
- Thánh Giuse Nguyễn Vân Lưu trùm họ Mạc Bắc. Ngài đã giúp đỡ và giấu ẩn cha Thánh Philipphê Minh trong nhà nên bị bắt, giải về Vĩnh Long. Vì già yếu và với lại chịu lắm khổ hình, ngài đã chết rũ tù ngày 2.5.1854.
- Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, trùm xứ và thầy thuốc. Ngài đã bị giam cùng với Ðức cha Cao, Cha Ðiểm, Cha Khoa, thầy Phêrô Từ và đã chịu tử hình ngày 10.7.1840, tại Ðồng Hới.
- Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, trùm cả Bình Ðịnh, một trợ tá đắc lực của Ðức Cha và hàng giáo sĩ. Ngài đã bị bắt và phát lưu vào Mỹ Tho, nhưng vì quá gian khổ nên đã từ trần lúc vừa đến Mỹ Tho ngày 15.7.1855.
- Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Câu Phủ Họ Ðầu Nước, tỉnh An Giang, rất nhiệt thành và quí mến hàng linh mục. Ngài đã bị bắt cùng với Cha Ðoàn Công Quý và hy sinh vì Chúa tại Châu Ðốc, ngày 31.7.1859.
- Thánh Antôn Nguyễn Ðích, thường gọi là ông trùm Ðích, ngài rất đạo đức, yêu người nghèo và tận tụy giúp đỡ hàng giáo sĩ. Ngài đã bị bắt cùng với con rể là Thánh Micae Lê Mỹ, vì cho linh mục Thánh Giacôbê Mai Năm trú ngụ tại nhà. Cả ba đã trung kiên đến cùng và đã xử trảm tại Nam Ðịnh ngày 12.8.1838.
- Thánh Mathêu Nguyễn Văn Phượng, một người nổi tiếng đạo đức thông minh, được bầu làm trùm họ Sáo Bùn, Quảng Bình. Ngài bị bắt vì tội chứa chấp cha Thánh Gioan Hoan và oa trử đồ lễ cùng sách vở Công giáo. Ngài đã bị xử trảm ngày 26.5.1861, tại Ðồng Hới cùng với cha Hoan.
* Những phụ nữ Công giáo Việt Nam đã anh dũng tuyên xưng đức tin như:
- Thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ Công giáo gương mẫu. Vì sốt sắng giúp đỡ các linh mục trong buổi cấm đạo nên bà đã bị bắt và vì chịu quá nhiều cực hình, thân thể đầy thương tích, lại không ăn uống được, nên kiệt sức và chết rũ tù ngày 12.7.1841.
* Những anh hùng vô danh mà từ Nam chí Bắc, ai đã sống trong những tháng năm đầu thế kỷ 20 này đều có thể gặp. Ðó là các cụ ông, cụ bà trước đây đã bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn rồi bị người ta rạch mặt lấy mực tàu xâm lên trên má hai chữ "Tả đạo" để dù đi đến đâu, nhân dân ai cũng nhận ra đây là những người theo đạo tả; nhưng đối với giáo dân, đây là biểu tượng của đức tin kiên cường sáng chói.
"Chúng ta hãy ca tụng những bậc vĩ nhân, những bậc tiền bối của chúng ta" (Giảng viên 44,1).
5. Tuyên xưng bằng máu
* Hãy có một đức tin sắt đá, con sẽ làm được tất cả, vì mỗi lần Chúa làm phép lạ, Chúa hỏi có tin không. "Ðức tin con làm cho con được lành." (ÐHV 278).
* Chúa toàn năng và hằng hữu, nếu con tin Chúa, con sẽ làm những việc lạ lùng như Chúa Giêsu đã làm, và còn làm những việc vĩ đại hơn nữa. Ngài đã hứa! (ÐHV 284).
Ðức tin là con mắt thần, là sức mạnh vũ bão. Người có đức tin trông thấy những kẻ khác không thể trông thấy, làm được những cái kẻ khác không thể làm được.
Khi đứng trước lưỡi gươm trần của tên đao phủ đang đưa lên cao, Thánh Phêrô Veren vẫn hiên ngang tuyên bố: "tôi tin". Khi miệng bị chém không thể nói được nữa, ngài vẫn bình tĩnh lấy ngón tay thấm máu đang chảy ràn rua trên ngực và viết lên mặt đất, nơi ngài sắp gục ngã làm của lễ, hai chữ: Tôi Tin.
Ðúng như lời Thánh Kinh: "Sự chiến thắng của tôi chính là đức tin kiên vững".
6. Ðức tin của anh công nhân
* Xem hành động của con, phản ứng của con, đủ biết đức tin của con sống động hay là "đức tin nhãn hiệu"! (ÐHV 275).
Ông ấy là giám đốc của một xưởng kỹ nghệ chuyên sản xuất nông cụ. Ông ta không tin có Thiên Chúa và cũng chẳng tin vào tinh thần trách nhiệm của các công nhân trong xưởng. Sáng hôm ấy, hơn 1,000 công nhân trong xưởng nghe nói ông giám đốc đã lên đường đi công tác nơi xa, mà sớm lắm cũng một tháng sau mới trở về, nhưng đến tối ông âm thầm về lại xưởng. Sáng ngày hôm sau, ông đứng trên văn phòng ở lầu hai quan sát các công nhân làm việc. Bộ mặt thực của mỗi người đều bị lộ: ai ai cũng lười biếng, nhác nhớn, duy chỉ một anh công nhân lúc nào cũng làm việc tận tụy, hăng say. Tên anh là Shirley, người Công giáo duy nhất của xưởng.
Hôm sau các công nhân nghe rằng, ông giám đốc đã hoãn chuyến đi vì trở ngại kỹ thuật! Riêng Shirley, chàng được gọi lên văn phòng:
- Anh Shirley, tôi hết lòng khen ngợi anh, anh là một công nhân tốt. Tôi không thấy đức tin của anh, nhưng nhìn qua công việc lao động và thái độ sống của anh, tôi cũng hiểu được phần nào...
Mấy tháng sau, các công nhân nghe tin ông giám đốc bắt đầu học giáo lý Công giáo.
7. Thà bị lột da
* Trên đường hy vọng, con cần một địa bàn để chỉ đường cho con trong những lúc tăm tối gian nan nhất, đó là đức tin, địa bàn Hội Thánh trao cho con ngày chịu phép Thánh Tẩy (ÐHV 271).
Ngày kia có người hỏi Fabre, một nhà côn trùng học danh tiếng: "Ông có tin vào Thiên Chúa không?" - Nhà bác học trả lời không chút ngần ngại: "Tôi không thể nói không tin vào Thiên Chúa. Vì không có Người, mọi sự đều tối đen, tôi cũng chẳng hiểu được tí gì. Tôi thà bị lột da còn hơn là để mất niềm tin vào Thiên Chúa ".