Một hôm vào ngày 24 tháng 3, tôi bỗng rất muốn chịu lễ vào hôm sau, ngày lễ Truyền tin. Người ta nói có một nhà thờ cách xa 30 cây số. Cho kịp kinh sáng tôi phải đi cả ngày và đêm. Thời tiết thực khó chịu: mưa tuyết và gió lạnh. Có lúc tôi đi qua suối vừa đến giữa lòng suối, băng bỗng tan và tôi rơi vào nước lạnh ngập đến ngang lưng.
Khi đến nhà thờ tôi ướt như chuột lột, và đứng đó trong suốt năm tiếng đồng hồ. Và tôi hạnh phúc được rước lễ... Ðể được yên tĩnh tôi xin ông từ cho mình ở trong phòng ông cho đến sáng hôm sau... Cả ngày tôi hoàn toàn hạnh phúc. Tôi nghe như có lời cầu nguyện âm vang trong lòng. Tình yêu Chúa Kitô và Mẹ Maria tràn ngập tâm hồn và trái tim tôi.
Suốt đêm, tôi thấy buốt chân và thấy chân vẫn còn ướt. Tôi không để ý vẫn tiếp tục cầu nguyện. Ban sáng khi muốn chỗi dậy chân tôi không nhúc nhích được nữa. Suốt ngày tôi bất động trong phòng của ông từ. Ðến chiều ông ta bảo tôi đi ra.
- Ông mà chết ở đây, tôi sẽ làm gì đây?
Tôi khó nhọc dùng tay lê ra khỏi phòng và nằm ở cửa nhà thờ trong vòng hai ngày. Dù tôi rên rỉ những người đi qua không ai để ý đến tôi. Sau cùng một người nông dân tới gần và hỏi:
- Ông trả cho tôi bao nhiêu nếu tôi làm cho ông khỏi? Tôi cũng đã bị như thế và tôi biết cách chữa trị.
Tôi trả lời:
- Tôi chả có gì cho chú cả.
- Sao lại thế, ông không có gì trong xắc sao?
- Ðúng, chỉ có bánh và muối.
- Nếu vậy khi khỏi bịnh ông làm công cho tôi cũng được chứ?
- Tôi không biết nữa, vì một tay tôi bị liệt, còn một tay kia thì yếu lắm.
- Nhưng ông có thể làm chuyện gì chứ?
- Vâng, tôi biết đọc và biết viết.
- Vậy thì tốt lắm. Tôi có thằng con biết đọc sơ sơ nhưng tôi muốn nó học viết. Người ta đòi tôi 20 roubles nhưng tôi thấy đắt quá.
Tôi nhận lời. Thế là người nông dân và ông từ giúp đưa tôi về nhà đem tôi vào phòng dùng để tắm hơi cuối sân nhà. Sau đó anh ta lấy một ký xương rửa sạch, nghiền ra và bỏ vào chảo nắp có lỗ. Anh bỏ chảo trên lò chôn xuống đất. Rồi anh lấy bùn trát và chất củi chung quanh nấu chừng hai mươi tư tiếng đồng hồ. Sau đó ông lấy ra từ đáy nồi nửa lít thuốc đặc màu đỏ, có dầu, chảy ra từ những lỗ vung nồi. Xương thì thành sạch trắng như ngà.
Tôi chà chân mỗi ngày năm lần với dầu. Hôm sau tôi đã có thể nhúc nhích ngón chân. Ngày thứ ba tôi có thể co chân. Ngày thứ năm tôi đứng dậy được và trong vòng một tuần lễ tôi khỏi bịnh.
Tôi cám ơn Chúa.
- Chúa đã cho thiên nhiên bao nhiêu là sinh lực và ơn sủng! Lạy Chúa, xương khô cũng cho người ta hồi sinh. Ðây là hình ảnh tương trưng đẹp đẽ cho sự phục sinh. Tiếc rằng ông thợ rừng không có ở đây, ông vẫn còn hồ nghi về sự sống lại.
Vừa khỏi bịnh tôi dậy học cho cậu con người nông dân. Cậu đến nhà tôi khi còn sớm vì cậu phải làm việc cho một người quản lý đất đai Cậu thông minh nên chỉ một thời gian sau cậu có thể viết lách dễ dàng. Ông quản lý hỏi ai dậy cho cậu.
- Một khách hành hương què tay trong nhà tắm của chúng tôi.
Viên quản lý là người Ba lan, tò mò muốn thăm tôi và một hôm đến thăm tôi. Ông đến lúc tôi đang đọc sách kinh.
- À phải rồi, tôi đã thấy sách này một lần tại nhà ông linh mục ở Vilna. Cuốn sách nói về những lý thuyết màu nhiệm người Hilạp truyền thụ cho các thày dòng ở Ấn độ và Boukhara. Người ta nói bên những nước ấy có những tên quá khích thở cho đầy phổi, giữ hơi lại và tin rằng có thể nghe được nhịp tim. Họ luôn lập đi lập lại những câu bùa chú. Thực là một lũ điên. Theo tôi nghĩ đọc kinh lạy cha hàng ngày còn tốt hơn.
Tôi trả lời ông:
- Sách này không do mấy ông thày dòng Hilạp viết đâu bác ạ. Các vị đại thánh được tôn kính trong giáo hội chúng ta như Antôn, Macaire và Gioan Kim khẩu và bao nhiêu vị khác đã viết. Dĩ nhiên có những người làm biến chất và làm sai lạc những lời dạy dỗ của các ngài. Nhưng sách này có truyền thống phúc âm rõ ràng.
Bác biết kitô hữu không chỉ tự mãn là đã tập được những nhân đức bên ngoài nhưng còn khát khao một tình trạng cao hơn. Các giáo phụ giải thích trong cuốn kinh này tại sao kitô hữu phải ngất trí khi cầu nguyện.
Ông quản lý nói:
- Bác nói đến những điều ký lạ mà người thường chúng tôi không thể hiểu được và thành tựu được. Tôi trả lời bác ta:
- Tôi không đồng ý với bác. Và tôi đọc cho ông nghe một đoạn của Simeon nhà thần học mới:
"Một đêm khi ông cầu nguyện, tinh thần hợp nhất với Thánh Thần ông thấy một luồng sáng trên cao.. đích thực và bao la."
Bài văn làm cho ông khoái chí và ông muốn mượn sách kinh của tôi.
- Tôi sẵn lòng cho bác mượn, nhưng chỉ 24 tiếng thôi. Tôi không thể không có sách lâu hơn.
Ông bảo tôi:
- Bác chép cho tôi đoạn vừa đọc và tôi sẽ trả tiền bác.
- Tôi không cần tiền. Nếu Chúa dạy bác việc cầu nguyện nội tâm như thế tôi sẽ sung sướng chép cho bác và không lấy tiền.
Sau đó ông và vợ ông hay cho người gọi tôi đọc sách cho họ khi họ uống trà.
Một hôm ông mời tôi ăn cơm tối. Người ta dọn cá ra và bà chủ bị hóc xương cá. Không ai biết làm sao cho bà dễ chịu. Bà đau quá nên phải vào giường và người ta đi kiếm một bác sĩ cứu cấp cách đó hơn 20 cây số.
Về nhà vào buổi tối, tôi đi nằm và ngủ thiếp đi. Tôi bỗng nghe trong giấc mộng tiếng nói của cha linh hướng tôi tuy không thấy Ngài. Ngài bảo tôi:
- Ông nông dân đã chữa con. Tại sao con không thử chữa bà vợ ông quản lý?
- Con cũng muốn lắm nhưng con không biết chữa làm sao?
- Con phải làm như thế này: Từ khi còn nhỏ bà ta không chịu được mùi dầu Oliu: chỉ ngửi mùi thôi bà cũng muốn mửa. Con hãy cho bà ta uống một muỗng dầu. Bà sẽ mửa ra và xương sẽ ra theo, dầu sẽ làm khỏi vết thương nơi cổ.
Sau cơn mơ, tôi chỗi dậy và lên nhà ông quản lý xin ông thử thuốc của tôi.
Ông không tin cho lắm.
- Dù sao cũng không làm hại gì cho bà ta, mình thử coi.
Ông đổ dầu vào một ly nhỏ và sau khi bà cố gắng uống vào bà bắt đầu mửa ra và xương cá vọt ra với nhiều máu. Bà thấy dễ chịu ngay và ngủ mê mệt.
Sáng hôm sau bà đã có thể ngồi dậy uống trà với chồng.
Cả hai đều ngạc nhiên về chuyện khỏi hóc xương nhất là không ai biết trừ họ ra, chuyện bà không thể chịu nổi mùi ôliu.
Ít lâu sau thày thuốc tới và bà ta kể cho ông nghe chuyện đã xảy ra. Tôi cũng kể ông nghe người nông dân đã chữa bịnh tôi như thế nào. Bác sĩ nói:
- Tôi không lấy làm lạ vì thiên nhiên là bài thuốc hay nhất.
Tiếng đồn bà chủ khỏi bịnh vang xa trong vùng và người ta nói cho nhau là tôi làm phép lạ.
Người ta bắt đầu đến tìm tôi, kể cho tôi nghe bệnh tật của họ hay công việc của họ. Họ tặng quà và khen ngợi tôi.
Tôi chịu như thế được một tuần lễ, nhưng sau đó vì sợ rơi vào hư danh và phân tâm, tôi lén trốn đi trong đêm.
Ngọc Lân mùa chay 1991.
Lm. Nguyễn Ðức Huy.