Tôi lang thang qua nhiều địa phương với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho tôi sức mạnh và an ủi tôi, trên đường đi, khi gặp gỡ và những bất trắc của cuộc hành trình.
Khi tôi tìm được chỗ nghỉ đêm hay khi dừng lại nghỉ mệt, tôi đọc sách kinh. Nhưng có một lúc nào đó tôi cảm thấy nhu cầu học hỏi thêm.
Tôi cố tìm một công việc vững chắc nhưng vô ích nhất là vì tay tôi bị tê liệt từ khi còn nhỏ.
Tôi quyết định sang Irkoutsk trong miền Tây bá lợi á.
Tôi nghĩ rằng khi đi qua rừng hay thảo dã Tây bá lợi á sẽ giúp tôi cầu nguyện và đọc sách.
Sau một thời gian tôi nhận ra là lời cầu nguyện của tôi tự phát từ môi miệng vào trong tâm hồn nghĩa là hình như trái tim tôi trong mỗi nhịp đập lập lại những lời cầu xin: Lạy Chúa Giêsu...
Thế là tôi thôi đọc chỉ chăm chú nghe những gì lòng tôi đang nói, ôi êm dịu biết bao.
Ðể có thể đọc nhiều hơn, tôi thường đi ban đêm và suốt ngày tôi học dưới bóng cây rừng.
Hơn hai tháng trôi qua.
Khi gặp làng xóm tôi xin một túi bánh khô, một chút muối. Tôi đổ đầy nước trong bầu và có lương thực rồi, tôi lại đi hàng trăm dặm.
Một lần khi mặt trời lặn, cạnh một đại lộ có hai người đầu cạo trọc có vẻ là hai người lính đến gần tôi.
- Tiền đâu
- Tôi bảo đảm không có một xu dính túi.
- Mày nói dối. Mấy tên đi hành hương thường quyên tiền và có bộn bạc.
Một tên nói: "Không cần tranh luận lôi thôi," và cho tôi một gậy vào đầu và tôi ngất xỉu.
Khi tôi tỉnh dậy, tôi đang nằm trong một cái hố. Túi xách đã biến mất. Chỉ còn giây buộc và chúng đã cắt ra để lấy xắc. Cám ơn Chúa chúng không lấy giấy kiểm tra tôi dấu trong mũ lông.
Khó khăn lắm mới chỗi dậy được và nhức đầu ghê gớm. Nhưng tôi chỉ buồn là tôi đã mất cuốn Thánh kinh tôi đọc từ hồi nhỏ và cuốn sách kinh.
Tôi u buồn và đói khát trong vòng hai ngày.
Ngày thứ ba không còn sức lực nữa, tôi nằm ngủ dưới đất sau bụi cây. Và tôi mơ. Tôi đang trong phòng cha linh hướng. Ngài an ủi tôi. Cha nói:
- Những chuyện xảy ra là dịp cho con thực hành sự từ bỏ của cải đời này và khoái lạc tinh thần cũng như hoàn toàn theo thánh ý Chúa.
Con hãy an lòng. Con sẽ thấy vui khi buồn khổ bây giờ.
Tôi thức dậy tươi trẻ lại và tôi tiếp tục đi ba ngày nữa.
Ðột nhiên có một nhóm tù nhân có lính gác đi theo tôi. Tôi nhận ra có hai tên đã ăn cướp của tôi. Tôi đến gần và hỏi họ về hai cuốn sách. Lúc đầu họ không thèm nghe tôi. Rồi một tên nói:
- Cho tao một rouble chúng tao sẽ nói cho.
- Nếu tôi có tôi sẽ trả cho chú.
Họ cho tôi hay là những cuốn sách đó nằm trên xe đi theo đoàn tù với những vật dụng khác họ đã lấy.
- Làm sao tôi lấy lại được?
- Hỏi ông chỉ huy...
Tôi hỏi ông. Ông hỏi:
- Ông biết đọc không?
- Thưa Ngài tôi biết đọc và viết. Tôi có viết tên tôi trong cuốn Thánh kinh. Ông có thể kiểm chứng chữ ký trên đó và giấy kiểm tra của tôi.
Viên chỉ huy kể lại chúng là những tên đào ngũ. Chúng ở trong căn nhà lá giữa rừng và đã ăn cướp nhiều người cho đến khi một bưu tá viên khôn khéo bị chúng âm mưu ăn cắp xe ba ngựa của ông bắt được.
Viên chỉ huy nói: "Tôi sẽ trả cho ông sách vở khi xe dừng lại chiều nay".
Rồi ông bắt đầu hỏi tôi... Ðến nhà trạm ông trả lại sách cho tôi và nói:
- ông đi đâu bây giờ? Tối rồi. Ông cứ ở đây đi và ngủ ngoài phòng khách của tôi.
Tôi nhận lời. Khi thấy tôi ôm chặt Thánh kinh vào lòng ông hỏi tôi:
- Ông quí cuốn Thánh kinh lắm phải không? Tôi cũng đọc Phúc âm mỗi ngày.
Ông mở vali ra và rút ra một cuốn Phúc âm mạ bạc.
- Ông ngồi xuống đi.. Tôi xin kể ông nghe tôi như thế này... Người ta sẽ dọn cho mình bữa tối tại đây.
Vào bàn ăn, ông tiếp tục kể chuyện:
- Khi còn trẻ tôi ở trong quân ngũ. Tôi rành rẽ nghề nghiệp của tôi. Là một thiếu uý, các cấp chỉ huy coi trọng tôi. Tuy thế tôi còn nhỏ tuổi. Thực tệ hại tôi có thói quen uống rượu và dần dà bị bịnh ghiền.
Khi không uống gì tôi là một sĩ quan gương mẫu. Nhưng đôi khi tôi uống liền trong sáu tuần lễ.
Người ta phải chịu đựng tôi quá lâu và sau cùng vì thô lỗ với cấp chỉ huy trong lúc say rượu, nên tôi bị lột lon và bị cách chức làm binh nhì đến một đơn vị xa.
Tại đây tôi thử dùng mọi thứ thuốc để chữa bệnh. Nhưng vô ích. Và tôi được chuyển sang một tiểu đoàn trừng giới.
Chính lúc đó tôi gặp một thày dòng đến trại lính quyên tiền cho nhà thờ.
Tôi nói về những nỗi khốn khổ của tôi cho ngài nghe.
Ngài nói: "Ðứa em tôi cũng bị như thế. Anh biết tại sao nó thoát được không? Cha linh hướng của nó đã cho nó một cuốn Thánh kinh và dạy nó đọc một đoạn mỗi lần muốn uống rượu trở lại... Ngày mai tôi sẽ cho anh một cuốn Phúc âm".
Sau khi nghe ngài nói tôi thưa với ngài:
- Làm sao cuốn Tân ước của cha có thể giúp con được, cả thuốc thang và các bác sĩ cũng không thể kìm hãm con.
Ngày hôm sau ngài mang cho tôi một cuốn Thánh kinh.
- Con không thích cuốn sách này. Con không đọc được cổ văn và con cũng không hiểu bản văn nói gì.
- Ðiều đó không quan hệ, nếu con lấy đức tin đọc sách này và tin rằng sách viết ra cho con bây giờ... con sẽ thấy hiệu quả.
Sau cùng tôi mua cuốn sách bỏ vào trong rương rồi quên luôn.
Sau một thời gian, tôi lại bị quyến rũ uống rượu. Tôi mở rương lấy tiền ra quán. Lúc đó tôi nhìn thấy cuốn sách nhỏ. Tôi mở ra và đọc chương đầu tiên của Phúc âm thánh Matthêu.. Rồi chương hai... Ðến chương ba thì đến giờ giới nghiêm tôi không thể ra khỏi trại lính nữa.
Sáng hôm sau tôi thức dậy cũng vẫn thèm uống.
Tôi nghĩ:
- Mình đọc thêm một chương xem sao. Rồi tôi đọc và thêm can đảm. Suốt 20 năm nay tôi không còn biết rượu là gì.
Sáng hôm sau khi viên chỉ huy thức dậy tôi đến cám ơn ông và từ giã.
Ông mời tôi uống trà cho tôi một rouble và từ giã tôi.
Tôi lại lên đường. Tôi đã đi khá xa mới nhớ lại mình đã hứa với anh lính như thế nào. Lúc đầu tôi tự nghĩ:
- Nào có ích lợi gì? Chúng đã muốn giết mình, và ăn cướp, vả lại tiền bạc cũng không đem lại ích lợi gì cho họ, vì họ mang cảnh tù tội. Nhưng lúc đó tôi bỗng nhớ lời Kinh Thánh: Ðừng để sự dữ chiến thắng con nhưng hãy chiến thắng sự dữ bằng sự lành.
Tôi trở lại, gặp lại hai anh lính và đưa đồng rouble cho anh và nói:
- Chúa Giêsu Kitô yêu nhân loại. ngài sẽ không bỏ rơi các bạn.
Rồi tôi lại bắt đầu độc hành trên con đường tôi đi.
Những tuần lễ sau đó tất cả cảnh vật chung quanh đều hoan hỉ và lạ lùng. Cây cỏ chim chóc, đất đai, không khí ánh sáng hình như nói với tôi là tất cả được tạo dựng vì con người, tất cả chứng minh Chúa yêu con người, tất cả cầu nguyện và dâng lên ngài những lời chúc tụng tôn thờ.
Từ đó tôi hiểu rằng tôi có thể nói chuyện với vạn vật và làm cho chúng hiểu tôi.
Ngọc Lân mùa chay 1991.
Lm. Nguyễn Ðức Huy.