9. Nguồn Gốc Văn Hóa Việt

Theo Những Khám Phá Mới Nhất

by Rev. Kim Ðịnh, Vietnamese Philosopher

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Bàn về 2 quyển khảo cổ và cổ sử mới nhất về nước Tàu có liên hệ tới nguồn gốc văn hóa Việt Nam.

Ðó là quyển "The Origins of Chinese Civilization" gồm những bài đã thuyết trình trong hội nghị Berkelev 1980. Sách in tại University of California Press 1983. Sẽ viết tắt là Origins.

Quyển thứ hai là The Chinese Heritage by K.C. Wu, 496 trang, in tạiCrown Publisher Inc. New York 1982 sẽ viết tắt là Wu. Tiến sĩ Wu làm đại sứ kiêm học giả.

Bài này sẽ theo hai quyển trên và một ít tài liệu cập nhật hóa để xét lại nguồn gốc nước Tàu và Việt. Theo đó nước Tàu mới có từ quãng 20 thế kỷ trước Công Nguyên gồm ba nhà Hạ, Thương, Chu. Ta hãy điểm qua từng nhà.

1. Nhà Hạ kéo dài 439 năm (2205-1898). Tiếng Hạ không phải là tên chủng tộc mà chỉ là một mảnh đất nhỏ ở Mạn Nam sông Hoàng Hà đối với người ở Mạn Bắc thì kể là mùa hạ. Có thể người Chàm Chốc Ðốc đã ở đấy vì họ cũng có tên là Hạ và có tục cưới rễ y như ông Vũ nhà Hạ về ở quê vợ là Ðồ Sơn tức Hội Khê. Cha ông tên là Cổn được trao cho việc trị thủy nhưng thất bại, đến lượt ông Vũ thì thành công. Chữ trị thủy hiểu theo ẩn nghĩa là "cai trị nước". Ông Vũ trị thủy được là nhờ có con qui nổi lên ở sông Lạc đội quyển sách có 9 khoản. Theo cái nhìn của huyền sử thì đó là cách cai trị của Lạc Việt gọi là Cửu Lạc, sau Nho Giáo gọi là Hồng Phạm Cửu Trù với Lạc Thư, tất cả đều phát xuất từ Việt tỉnh cương tức là 9 điều xếp theo 9 ô chữ tỉnh của Việt tộc.

2. Nhà Thương kéo dài 612 năm (1766-1154). Về văn hóa thì phát xuất từ Hoài Di tức theo văn hóa Di Việt. Bà Giản Ðịch đẻ tổ nhà Thương theo lối dã hợp của Di, cũng theo mẫu hệ: gọi tên theo lối Việt như vua Ðê Ất, khi đánh với nhà Chu thì hầu hết là nhờ quân các nước Di nên nói được nhà Chu thắng nhà Thương là Tây thắng Ðông. Nhưng thắng Di, mà Di với Việt có liên hệ chặt chẽ cả về tiếng nói cùng một gốc Nam Á (Austro-Asiatic) (xem Origins tr. 437-442) "Thế mà đất của Di rất bao la gồm Sơn Ðông, Ðông Hà Nam, Bắc Giang Tô, Ðông Bắc An Huy, có thể cả miền duyên hải Hà Bắc và Trực Lệ, hai bên Liêu Ðông và bán đảo Triều Tiên trong đó có những tên họ như Tái Hạo (Phục Hi), Thiếu Hạo (Kim Thiên) họ Phong, họ Doanh, họ Yếm... tất cả đều liên hệ với Di. Những biến cố lớn đời nhà Hạ là những cuộc đụng chạm với Di". Học giả Phó Tư Niên, trưng theo Origins tr. 498. Cho đến hết nhà Thương thì chưa có gì được gọi là văn hóa Tàu. Tất cả còn là Di, chỉ tự nhà Chu mới có sự khác biệt về văn hóa.

3. Nhà Chu kéo dài 897 năm từ 1122-225 phát xuất từ Tây Di, họ Cơ thuộc bộ tộc Nhung (hoặc Khương). Về văn hóa sút hơn nhà Thương rất nhiều, tuy nhiên chính nhà Chu đã biến đổi văn hóa Di Việt thành ra văn minh Tàu là do đến sau và cai trị lâu năm, và nhất là vì có tính cách du mục, phụ hệ, võ biền: đưa vào văn hóa Di Việt nhiều yếu tố du mục như chức thiên tử (ghế vua thần) quân đội chuyên nghiệp, luật hình, hoạn quan, hữu nhậm, ưa số 6 và 4, đàn áp đàn bà, khinh miệt dân chúng gọi là lê dân (dân đen đầu) hay kiểm thủ. Vì có pha máu Turc tóc vàng nên gọi dân thế. Và cũng từ đấy thì bắt đầu phân biệt Tàu với Di Việt bằng cách coi khinh và những chữ Di Ðịch mới hàm ý "rợ mọi" chứ trước không hề có thế. Vì Tàu đều phát xuất từ Tứ Di cả, nhưng khi đã chinh phục được Tứ Di rồi quay lại khinh dễ gốc của mình.

4. Nhà Tần kéo dài 49 năm từ 255-206, nhưng chiếm toàn cõi nước Tàu nhất là Sở, Việt, Ngô và xưng là Tần Thủy Hoàng Ðế thì mới từ năm 221. Tuy cai trị vắn những đã để lại một hình ảnh nước Tàu to lớn thống nhất, nên từ ấy về sau các nhà viết sử bám vào hình ảnh này mà quên đi những quãng đầu lúc nước Tàu còn nhỏ xíu. Từ Tần Thủy Hoàng nước Tàu mới có như nay nhưng vẫn phải mượn tên Tần đề gọi nước. Người Tàu đọc Tần là Tsin (đọc theo âm tiếng Việt là Chin) thành ra Chine, China. Tần là một trong Tứ Di, nhưng vì tiếp cận với du mục quá lâu nên đi theo hướng du mục, chuyên chế, không hợp với Nho nguyên thủy là vương đạo theo tinh thần dân chủ. Vì thế cai trị nước Tàu quãng 49 năm.

5. Nhà Hán chia hai là tiền Hán 174 năm (206-32 trước Công Nguyên) cũng phát xuất từ Tứ Di, miền Giang Tô. Khi mới lên ngôi còn tế Ly Vưu và xưng mình là Hán Man. Chữ Hán chỉ là hình dung từ nghĩa cao sang vinh hiển, chứ không là tên dòng tộc, y như chữ Hạ và Hoa đều thế. Vì Tàu chỉ từ Tứ Di phát xuất chứ không có dòng tộc riêng nên không có tên riêng. Trước đây người ta tưởng là Hoa hay Hạ là tên dòng tộc nhưng mới đây ông Wu (tr. 106-110) đã chứng minh là không phải thế mà là tên mới từ đời nhà Chu thêm hình dung từ Hoa vào Hạ để chỉ sự hiển vinh, lâu rồi người ta dùng chữ Hoa bỏ chữ Hạ. Ðến đời mới vì Tần nổi quá nên người Mông Cổ gọi Tàu là Tần và tên này dính luôn.

Những điều này chứng tỏ Tàu không là một chủng tộc riêng mà chỉ do tự Tứ Di phát xuất. Ðiều này đã trở thành hiển nhiên khi xem mấy vị thủy tổ như Phục Hi, Nữ Oa đều xuất thân từ Di (miền Châu Từ, sông Hoài... Thần Nông thì có lưu truyền phát xuất từ miền Tibet đi vào Tàu qua ngã Tứ Xuyên và định cư ở Hồ Bắc bên bờ Dương Tử Giang. Còn vị nổi nhất là Bàn Cổ thì nay đã tìm ra là người Việt họ Bàn đọc là Bàng (Hồng Bàng) là Bành (Bành Tổ) theo lối đọc miền Nam mấy âm đó xuýt xoát (xem Hán Việt tự điển Nguyễn Văn Khôn chữ Bàng, Bàn. Vì không nhận ra điều đó nên nhiều sách gán với chữ Bàn Hồ của dân Dao). Tương truyền mồ mả ông còn đâu đó trong miền rừng núi tỉnh Quảng Ðông, ông mới được đưa vào Tàu đời Tam Quốc trong quyển "Tam ngũ lược kỳ" của Từ Chỉnh và đến đời Tống thì được đưa vào Triết. Trong hoàn vũ Ðông Tây kim cổ không có hình ảnh nào về nhân chủ cao đẹp hơn hình ảnh Bàn Cổ. Ngày 15-8-1984 An Việt khám phá ra những điều này (trong sách ông Wu tr. 2) nên đã đặt tên cho một chi ở San Jose là Bàn Cổ để ghi "biến cố quan trọng" là tìm ra tổ chót vót của mình.

Hỏi: Sao lại nói Việt Nho mà không Di Nho hay Hán Nho?

Thưa: Gọi Di Nho được lắm, nhưng vì nay không còn dân nào mang tên Di để đại diện nên phải lấy tên Việt vốn gắn liền với Di như đã nói trên. Nên chú ý chữ Việt đây tuy là siêu việt cũng một căn với phủ việt là thứ rìu lưỡi cong đặc biệt của Ðông Sơn cũng là của Việt. Việt này bao la ăn từ Chiết Giang lên mãi Liêu Ðông dính với Ðịch như đã nói trên (triệt 3) và có thể là U Việt (Việt diện U linh). Còn phía Dương Tử Giang thì có Liêu Việt, Bộc Việt. Lại có Lạc Việt miền Hoàng Hà... Việt mênh mông này có trước Bách Việt. Bách Việt viết với bộ mễ mới có sau tự lúc Việt Chiết Giang bị Sở thôn tính thì tỏa xuống phía nam lập ra nhiều nước nhỏ mà Tàu gọi là Bách Việt trong đó nổi nhất có Nam Việt của ta ở Quảng Ðông, thứ nhì là Mân Việt ở Phước Kiến...

Vì Việt gắn liền với Di, lại còn việc nước mang tên Việt với vật biểu đi đôi tiên rồng. Ðó là nét đặc trưng nòng cốt, nên phải dùng tên Việt để đặt nối nguồn gốc văn hóa nước ta, sau này nếu cần vì lý do ngoại giao không nên dùng chữ Việt Nho thì sẽ dùng từ Nguyên Do, Di Nho hay Nho suông thay thế.

Ðàng khác khảo cổ đang hướng mạnh về trục Nam Bắc tức văn hóa phát xuất từ miền Nam (văn hóa Hòa Bình, Non-nok-Tha... Ban chiang...) tiến lên Bắc là Ngưỡng Thiều (tỉnh Thiềm Tây) và Long Sơn (tỉnh Sơn Ðông). Mỹ có người đi theo hướng đó như ông Solheim và Gorman đại học Hawaii. Nga cũng đi theo hướng đó. Xem bài ông Karl Jettmar Origins tr. 217.

Tóm lại tuy khảo cổ chưa thể quyết đoán về mọi chi tiết cách chắc nịch theo lối huyền sử, vì huyền sử xem bao quát để nhìn ra cái dạng chung của cánh rừng, còn khảo cổ ví như đi vào rừng để xem xét từng chi tiết, nên gặp phiền toái hơn nhiều, dẫu vậy có thể nói những nét lớn thì khảo cổ và cổ sử đã kiện chứng cho thuyết Việt Nho, theo đó Việt sáng tạo ra ý tưởng, còn Tàu thì công thức hóa và làm trọn vẹn. Việt là kế thừa trung tín của Di Nho hơn Tàu. Tàu theo đạo Khổng mà Khổng đã học với Di Nho tức Nghiêu Thuấn mà Thuấn là "Ðông Di Chi Nhơn".

 


Back To Vietnamese Missionaries in Asia Home Page