Linh mục Giáo sư
Giuse Vũ Kim Chính, SJ. PhD,ThD (1948-2023)
Nhà Triết Học Khiêm Cung - Nhà Thần Học Mẫu Mực
Linh mục Giáo sư Giuse Vũ Kim Chính, SJ. PhD,ThD (1948-2023): Nhà Triết Học Khiêm Cung - Nhà Thần Học Mẫu Mực.
Giáo sư Trần Văn Ðoàn
Giữa bữa tiệc vui, đám cưới của Chu Minh Quyền, một cựu sinh viên của tôi tại Ðại học Quốc gia Ðài Loan và hiện là Phó Giáo sư tại Ðại học Phụ Nhân, vào buổi chiều ngày 14 tháng 10 năm 2023 tại Ðài Bắc, Giáo sư Lê Kiến Cầu, nguyên Hiệu trưởng Ðại học Phụ Nhân, đồng nghiệp của cha Vũ Kim Chính, bất ngờ đến ôm vai tôi với bộ mặt u sầu. Ông đưa cho tôi xem một tin buồn, Tin nhắn của một nữ tu trên I-fone: "Cha Vũ Kim Chính đã qua đời tại Việt Nam".
Bất ngờ! Tim nhói lên! Miệng đắng chát. Không ai nói, chúng tôi nắm chặt tay nhau. Một mất mát quá lớn cho bất cứ ai quen cha Chính, nhất là đối với tôi. Ôi, đúng là số mệnh! Giáo sư Chính, người bạn cuối cùng trong những đồng nghiệp thân thiết nhất ở Ðài Loan và Mỹ. Giáo sư Vincent Shen (Thẩm Thanh Tòng, 1949-2018, Ðại học Toronto), Giáo sư George Francis McLean (1931-2016, Ðại học Catholic University of America), cũng đã ra đi.
Sứ mệnh đem tư tưởng nhân bản Kitô vào trong lòng thế giới, đặc biệt Trung quốc và Ðông Nam Á, mà chúng tôi từng đeo đuổi trong mấy chục năm, trở lên mù mịt. Có còn mấy ai như ba vị giáo sư trên, những triết gia sẵn sàng hy sinh thời gian quý hiếm, sống tiện tặn, đơn giản nhưng luôn mở rộng đôi tay để làm những chuyện "vô tích sự" trợ giúp chương trình giới thiệu sứ điệp nhân bản Ki tô cho giới triết học Ðông Nam Á, đặc biệt Việt Nam, mà tôi đưa ra?
Một số giáo sư quen biết đương dự tiệc cưới đến chia buồn với tôi. Tiến sỹ Lâm Chi Ðỉnh, linh mục phụ trách mục vụ (chaplain) tại Ðại học Phụ Nhân, cho biết là ông sẽ cùng với Viện Thần Học và Khoa Tôn Giáo, nơi Giáo sư Chính từng giảng dậy gần 30 năm, đồng tổ chức một thánh lễ truy niệm tưởng nhớ "Linh mục Vũ Kim Chính".
Tôi bỏ bữa tiệc cưới ra về, đầu óc ngược dòng nhớ lại 62 năm quen Chính, từ ngày được nhận vào Tiểu Chủng viện Simon Hòa Ðà Lạt, (chính xác là vào tháng 7 năm 1961 tại Tân Thanh, Bảo Lộc) cho tới ngày 12 tháng 02 năm 2023, bữa cơm trưa cuối cùng với nhau trong khuôn viên Viện Thần Học Benjamin, nơi cha Chính cư ngụ gần 40 năm. Cả đêm trằn trọc nhớ về người bạn, về những năm chung sống dưới mái trường từ trung học lên tới nghiên cứu sinh, đặc biệt tại Học viện Canisianum, Ðại học Innsbruck. Rồi những năm sát cánh giảng dậy tại Ðài Loan, những buổi hội thảo quốc tế (Taipei, Nagasaki, Boston, Washington DC, Vienna, Roma...), những buổi chia sẻ thao thức về việc xây dựng triết học Việt với triết gia linh mục Lương Kim Ðịnh và linh mục tiến sỹ Vũ Ðình Trác.
Ngược dòng thời gian - Chàng Sinh Viên Kiên Trì, Mạo Hiểm và Không Sợ Thất Bại
Năm 1961, Giáo phận Ðà lạt thành lập Tiểu Chủng Viện, và mở cuộc thi đầu tiên tại Tân Thanh, Bảo Lộc (B'lao). Hơn hai trăm thí sinh được giới thiệu dự thi vào, 45 được nhận nhập học. Trong quá trình 8 năm luyện tập, trên 30 bị rơi rụng, chỉ còn 13 người tốt nghiệp. Tám năm "được thí nghiệm" (với một ban giáo sư tuy rất nhiệt tâm nhưng chưa qua đào tạo sư phạm và thiếu kinh nghiệm) đã tạo ra một lớp học sinh đặc biệt biết "tự bơi" và "tự lập".
Chúng tôi 13 người, sau Tú tài 2, được gửi đi học cấp đại học tại Sài gòn (Ðại Chủng Viện Thánh Giuse 5), Ðà lạt (Giáo Hoàng Học Viện Pio X, 2), Áo quốc (Học viện Canisianum, 4) và Ý (Học viện San Paolo, 2). Chính và 3 bạn Quyền, Ðịnh, Giản được học bổng đi Áo. Ði Áo, Ðức ư? Một mạo hiểm và thách đố cho bất cứ ai học triết học và thần học, đặc biệt khi thiếu chuẩn bị, với cái vốn tiếng Ðức là một số 0 thật tròn trĩnh.
Mà tiếng Ðức vốn nổi tiếng là "khó nhằn". Thế mà, thầy Chính thành công tốt đẹp với hai bằng Thạc sỹ (viết hai luận văn, một về triết học, 1975, một về thần học, 1976, và bằng Tiến sỹ Triết học (1979). Tính mạo hiểm không dừng nơi đây. Sau khi gia nhập Giáo phận Klagenfurt (Áo), thầy Chính được Ðức cha Joseph Kostner phong chức linh mục hè năm 1977. Là tu sỹ nhưng không đánh mất bản chất học giả, ngoài việc thi hành chức vụ linh mục (làm việc mục vụ và xã hội giúp người Việt nhập cư tại Áo), cha Chính vừa tiếp tục nghiên cứu, hoàn tất chương trình Tiến sỹ. Cha đệ trình thành công luận án Tiến sỹ Von Transzendentaler Geltung zur Intersubjektivitaet tại Ðại học Innsbruck dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Otto Muck, một nhà toán học và triết gia nổi tiếng của Áo (06.1979).
Sau tiến sỹ triết học, cha Chính chuẩn bị gia nhập Hội dòng Tên Thánh Giê-su (Dòng Tên, Jesuits), một hội dòng truyền giáo trí thức của Giáo hội Công giáo La mã. Dòng Tên phụ trách, hay có thành viên giảng dậy, quãng 500 đại học trên toàn thế giới, trong đó có Ðại học Phụ Nhân, rất phù hợp với cha Chính. Do đó, Tiến sĩ Chính quyết định sang Ðài Loan, một phần vì tôi khuyến khích, một phần lớn là vì Dòng Tên Ðài Loan thuộc Tỉnh (dòng) Trung Hoa, bao gồm cả Việt Nam (lúc bấy giờ, hiện Tỉnh Dòng Việt Nam đã hoàn hoàn độc lập). Năm 1980, cha Chính qua Ðài Loan, và chính thức gia nhập Dòng Tên Tỉnh Dòng Trung Hoa (bao gồm Việt Nam) vào năm 1984 (sau 2 năm học tiếng Tầu và 2 năm Nhà Tập), với mộng có thể trở về phục vụ tại Việt Nam, một giấc mơ mà cha Chính đã hiện thực sau 30 năm đất khách quê người. Từ năm 2011, cha bắt đầu mở lớp tại Học viện Dòng Tên, Thủ Ðức.
Lại một mạo hiểm, và một thành công vượt bực. Tiếng Tầu vốn "không dễ nhá", đặc biệt là một thách đố cho những người lớn tuổi, khi mà trí nhớ không còn nhậy bén. Giao tiếp thường nhật không khó nhưng giảng dậy mới là một cực hình. Ðọc, nhất là viết, quả thực là một quá trình "luyện ngục". Không đủ thông minh, thiếu kiên nhẫn, không dám mạo hiểm và không có ý chí thắng vượt chính mình và ngoại lực, thì cái mộng đứng trên bục giảng triết học, thần học, dậy người Tầu bằng tiếng Tầu chỉ là giấc mộng Nam Kha. Thế mà cha Chính không chỉ làm được, mà còn thành công "vang dội".
Cha Chính ghi dấu sự nghiệp học giả với một thành công ngoài mong đợi. Cha hoàn tất Tiến sỹ Thần học năm 1986. Luận văn viết bằng tiếng Trung về thần học Tây phương là một thách đố mà ba ứng viên Tiến sỹ khác (một Gia nã đại, một Tây ban nha, một Ðài loan gốc Ðại lục) đã không vượt qua được. Tin cha Chính "đậu" Tiến sỹ Thần học" là một tin vui cho Ðại học Phụ Nhân. Qua một thời gian bằng bẵng 60 năm, Ðại học này mới được Tòa Thánh cho phép thành lập ban Tiến sỹ Thần học, và cha Chính được vinh dự là tiến sỹ đầu tiên được đào tạo trong nước Trung Hoa (Trung Hoa Dân Quốc - Ðài Loan).
Nhưng
tin này đem lại không mấy vui cho giới thần học gia bản xứ,
còn mang nặng óc dân tộc, vì cha Chính không phải là người
Tầu. Vì họ vốn quy hoạch, một linh mục nghiên cứu sinh gốc
Ðại lục phải được vinh dự là tiến sỹ đầu tiên. Với
bằng tiến sỹ thần học, cha Chính là "Lưỡng Quốc Tiến
sỹ" và "Lưỡng Châu Tiến sỹ". Báo chí Công
giáo Ðài, Hồng kông đều đăng tin này trên những trang
đầu của họ. [Xem tại đây: http://www.laijohn.com/archives/pt/Bu,Kcheng/1989]
"Vinh quang của Viện Thần Học thuộc trường Ðại Học Phụ Nhân: Tiến Sỹ Thần Học đầu tiên của trường Ðại Học Phụ Nhân sau 60 năm thành lập: Linh mục Vũ Kim Chính". |
Ðồng thời với nghiên cứu thần học, Tiến sĩ Chính được mời phụ trách một lớp triết học tại Khoa Triết, Viện Văn Khoa, 2 giờ mỗi tuần (2 credit-course) trong tư cách Giáo sư Trợ lý Thỉnh giảng (Adjunct Assistant Professor, 1987). Năm 1991, Ðại học Phụ Nhân thành lập Khoa Tôn Giáo, chính thức bổ nhiệm cha Chính làm Phó Giáo sư kiêm Thư ký. Rất nhanh, Tiến sĩ Chính được Bộ Giáo Dục Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) phong hàm Phó Giáo sư (Associate Professor, 1991), và sau gần 10 năm với trên 50 công bố khoa học và tập chuyên khảo về Rahner, Phó Giáo sư Chính được Ðại học Phụ Nhân vinh thăng chức Giáo sư. Cùng năm cha được Bộ Giáo Dục phong hàm Giáo sư (Full Professor, 2001), cấp giáo sư cao nhất tại Ðại học Phụ Nhân. [1] Cha trở thành trụ cột của Khoa Tôn Giáo và của Viện Thần Học.
Cần nói thêm, Khoa Tôn Giáo của Ðại học Phụ Nhân là khoa tôn giáo đầu tiên tại Ðài Loan, cũng là khoa nổi tiếng nhất về tôn giáo trong các đại học ở Ðài Loan và Trung Quốc, trong khi Ðại học Phụ Nhân là Ðại học Công giáo (Catholic University) và Giáo hoàng (Pontifical) được THE và QS xếp hạng rất cao ở Á châu, cũng như trong tốp 500-600 trên thế giới.
[Giống như Mỹ, học hàm Ðài Loan gồm: Giảng viên (Instructor), Giảng sư (Lector), Giáo sư Trợ lý (Assistant Professor), Phó Giáo sư (Associate Professor) và Giáo sư (Professor, hay Full Professor). Trong cấp bậc Giáo sư (Full Professor) có thể có thêm danh: Giáo sư Giảng tòa (Chair Professor), người có quyền hành, uy tín lớn nhất (cả đại học có rất ít Giảng tòa), Giáo sư Ðặc cách (Dístinguished Professor), người có công cho đại học, hay nghiên cứu nổi tiếng, Giáo sư Nghiên cứu (Research Professor), chuyên nghiên cứu không dậy học. Nhưng những loại giáo sư nổi tiếng này thường chỉ có trong các đại học lớn và nổi tiếng.]
Nhà Triết Học Thầm Lặng và Nhà Thần Học Mẫu Mực
Không ít triết gia "đao to búa lớn", kiểu như Socrates, Hegel, Marx, Nietzsche. Họ không phải là "thùng rỗng kêu to", bởi vì họ là triết gia thực, và họ có "quyền" kêu to, thậm chí rất to. Tương tự, không ít các nhà thần học nổi tiếng vì không theo quy tắc của Thánh bộ Tín lý. Hans Kueng dĩ nhiên không phải là thần học gia duy nhất. Khác với Kueng (mà Giáo sư Chính từng có dịp đối thoại tại Tuebingen), và gần với thánh Thomas Aquinas và thầy giáo Karl Rahner của mình, Giáo sư Chính của chúng ta có những ý tưởng độc đáo, luôn đi tìm những luận cứ để hòa hợp giữa đức tin và triết học, đức tin và văn hóa.
Cha đi đúng hướng mà Công Ðồng Vatican II đã chỉ ra. Có thể nói, Giáo sư Chính là một triết gia thầm lặng kín tiếng, một thần học gia luôn lấy Giáo hội làm mẹ; làm mẹ hài lòng, ngay cả khi có ý kiến khác biệt.
Chính vì thầm lặng mà giới triết học Việt (ngoài đời) ít người biết Giáo sư Chính. Thực ra, tôi rất mong có được những đại trí như cha Chính bên cạnh. Ba học giả Việt quốc tế mà tôi đặc biệt đề nghị Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Ðại học Quốc Gia Hà Nội, Ðại học Quốc Gia Tph HCM... mời thuyết trình, tham dự hội thảo, và dậy học (thỉnh giảng), đó là Giáo sư Chính (Trung Hoa), Giáo sư Phan Ðình Cho (Mỹ), và Giáo sư Trần Văn Toàn (Pháp). Viện Triết Học mời, Khoa Triết Học Ðại học Quốc Gia Hà Nội mời, Viện Tôn Giáo khẩn khoản mời, nhưng đều bị Giáo sư Chính từ khước. Cha Chính muốn tập trung trí lực cho Giáo hội Công giáo, đặc biệt Giáo hội Công giáo Việt Nam và Dòng Tên nhiều hơn. Cha biết, lộ diện nhiều không giúp gì hơn cho Giáo hội, thậm chí lại còn có thể gặp nhiều khó khăn hơn (vào đầu thập niên 1990). Chính tâm sự: "Cậu có thể công khai, mình thì không. Vì khi công khai, nhà chức trách (công an tôn giáo) có thể điều tra lí lịch, và công việc "dậy chui" (tại Học viện, hay các Ðại Chủng viện Công giáo) của mình có thể sẽ không dễ dàng nữa".
Nhưng Giáo sư Chính không từ chối những gì có lợi cho sự phát triển giáo dục triết học nhân bản cho đất nước và Á châu. Cha tham dự khá nhiều hội thảo (do tôi tổ chức hay phối hợp) tại Nagasaki (AACP), Taipei (AACP), Seoul (AACP), Washington DC (Triết Ðạo, 1998-2001 mỗi năm), Vienna, Roma và Boston (Ðại hội Triết học Thế giới, 1998). Cùng với triết gia linh mục Lươn Kim Ðịnh, linh mục Tiến sỹ Vũ Ðình Trác, Giáo sư Chính là người đầu tiên hưởng ứng chương trình nghiên cứu triết Việt của tôi đưa ra. Trong những hội nghị này, tôi luôn luôn yêu cầu ban Tổ chức dành một buối họp (section hay panel hay round-table) bàn về tư tưởng Việt, và Giáo sư Chính luôn có những luận văn sâu sắc, khiến tham dự viên chú ý và tranh luận.
Nhà Mô Phạm
Như đã viết ở trên, cha Chính được Bộ Giáo Dục phong hàm Phó Giáo sư, và Ðại học Phụ Nhân chính thức bổ nhiệm suốt đời tới tuổi hưu (tenured) tại Khoa Tôn Giáo vào năm 1991. Trong 22 năm phục vụ tại đây, Giáo sư Chính thăng tiến lên hàng Giáo sư (2001), giữ nhiều chức vụ hành chính và học thuật, từng được biểu dương là Giáo sư xuất sắc của Ðại học Phụ Nhân, hai lần đạt được giải thưởng nghiên cứu của Bộ Khoa Học, và nhất là được sinh viên, đồng nghiệp quý mến. Nhưng điều khiến sinh viên yêu quý cha hơn cả, đó là tấm lòng chân thành, luôn kiên nhẫn lắng nghe, sẵn sàng giúp đỡ, quan tâm sinh viên như một người cha và người thầy.
Ðã có rất nhiều sinh viên được Giáo sư Chính hướng dẫn (luận án Thạc sỹ, Tiến sỹ) và thành danh trong thế giới học thuật, nhưng vẫn nhớ đến cha Chính như người cha, người thầy.
Vinh Danh: Hội thảo về Giáo sư Vũ Kim Chính (06.2013)
Ðây chính là lí do, Giáo sư Chính là một trong số rất ít giáo sư được đồng nghiệp và sinh viên vinh danh với một cuộc hội thảo học thuật nhưng đầy ắp cảm tình, dịp cha chính thức về hưu năm 65 tuổi vào tháng 6 năm 2013.
Ðiều phải nói, một hội thảo vinh danh các giáo sư rất họa hoằn tại Ðài Loan (và các nước Âu Mỹ, như tôi biết). Ðó là vinh dự mà giới học giả ai cũng "ham muốn" nhưng không nói ra. Tôi được vinh hạnh là người đối thoại với Giáo sư Chính trong một section kết thúc hội thảo. Mãi mãi không quên.
Khác với Mỹ, tuổi quy định về hưu cho tất cả mọi người ở Ðài Loan là 65. Nhưng qui định nới lỏng cho những giáo sư đặc biệt xuất sắc.
Họ có thể được mời dậy tại các đại học khác (cho tới một độ tuổi nào đó).
Họ cũng được mời tiếp tục dậy trong tư cách giáo sư danh dự (Emeritus),
hay giáo sư thỉnh giảng (Adjunct Professor) tại đại học cũ.
Cha Chính được khẩn khoản mời tiếp tục giảng dậy suốt đời (trong chức vụ thỉnh giảng, Adjunct Professor). Và cha tiếp tục dậy học cũng như hướng dẫn sinh viên nghiên cứu không quản cơn bệnh Parkinson quái ác hành hạ.
Học Giả
Là một nhà nghiên cứu, học giả, Giáo sư Chính đã công bố trên 80 luận văn học thuật ba tập chuyên khảo, chủ yếu viết bằng tiếng Tầu, tiếng Anh, tiếng Ðức và tiếng Việt. [Xim xem nơi đây: https://theology.catholic.org.tw/bs/professor/p0002.html]
Giáo sư Chính cũng từng cộng tác với một số tu sỹ Việt tại Ðài Loan (như linh mục Joseph Trương Văn Phúc, v.v.) dịch nhiều tập sách Anh Việt Tầu, tập sách Ðường Hi Vọng của Ðấng Ðáng Kính Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, (Nxb Quang Khải, Ðài Bắc)... và biên tập Tự Ðiển Thần Học Tín Lý Anh Việt (Ðài Bắc: Nxb Quang Khải, 1996), cũng như với nhóm giáo sư Khoa Tôn giáo biên soạn hay tham dự vào ba tập sách (tiếng Trung) về Khoa Học Tôn Giáo Nhập Môn.
[Về phía học giả Công giáo Việt, ngoài Giáo sư Vũ Kim Chính, Giáo sư linh mục Phan Ðình Cho từng được vinh danh trong một hội thảo về cha tại Ðại học Georgetown, 2019 dịp 70 tuổi, và Giáo sư Trần Văn Ðoàn được vinh danh 5 lần (dịp 50, 60, 65, 70 và 75 tuổi)]
Không phải là một nhà hùng biện, nhưng Giáo sư Chính lại là một học giả cặm cụi với chữ nghĩa và suy tư. Với trên 80 luận văn và gần 7 tập sách (2 biên soạn), và viết bằng tiếng Trung, Ðức, Anh cũng như Việt ngữ. Phải nói Giáo sư Chính là mẫu mực của một học giả quốc tế.
Những Tác Phẩm
Nơi đây tôi xin nói qua về 4 tập sách quan trọng của Giáo sư Chính, và từ trong đó chúng ta có thể nhìn ra quan điểm triết học và thần học của cha:
- Von Transzendentaler Geltung zur Intersubjektivitaet (Innsbruck, 6.1979). Ðây là luận văn Tiến sỹ bàn về phạm vi tiên nghiệm của tính liên chủ thể cũng như những vấn nạn của nó trong liên kết và tổ chức xã hội mà Alfred Schutz, Peter Berger và Thomas Luckmann phát hiện và tìm lối thoát. Theo tác giả luận văn, ảnh hưởng mang tính tiên nghiệm trên mối liên hệ, nhận thức trong các chủ thể tạo thành cái mà chúng ta gọi là liên chủ thể luôn gắn với cấu trúc xã hội, đây là một điều mà Husserl không chú ý khi ông chủ trương một loại "giản lược đến tận cốt lõi của cái tôi suy tư (eidetic Reduktion) nhưng lại không thoát ra khỏi cái epoche tự đặt ra.
- "Nhân và Thần Hội Ngộ" (Nhân dữ Thần Hội Ngộ): "Rahner (La Nội đích) Thần Học Nhân Quan" (bằng tiếng Trung Hoa), Ðài Bắc: Nxb Quang Khải, 2000. Tập sách Hội Ngộ giữa Thần Thánh và Con Người: Nền Thần Học theo Quan Ðiểm Con Người của Rahner này (và trên 40 công bố khoa học) giúp Tiến sĩ Vũ Kim Chính được Ðại học Phụ Nhân và sau đó Bộ Giáo Dục Ðài Loan phong chức Giáo sư (Full Professor). Trong tập sách này, Giáo sư Chính bàn về một nền thần học con người (anthropological theology) mà Karl Rahner, nhà thần học được đánh giá là ảnh hưởng nhất vào thế kỷ 20 chủ trương. Là học trò của Rahner (1974-1976), Giáo sư Chính dĩ nhiên quen thuộc dòng suy tư của nhà thần học nổi tiếng khó hiểu này. Ông tìm hiểu Rahner từ truyền thống của Kant qua Heidegger, một truyền thống coi triết học là một nền nhân học (Anthropologie, theo Kant), và lấy phương pháp tiên nghiệm (transcendental method của Kant, mà theo Otto Muck, một thầy dậy khác của Giáo sư Chính, cho là phương pháp chính của trường phái Tân Kinh Viện như Rahner, Lonergan, Coreth, Muck, v.v., chủ trương) như là phương pháp hiểu biết và hội thông. Từ căn bản này, Chính thông diễn những quan điểm của Rhaner về thần bí, hội thông, bản vị hóa, v.v.
- Thần Học Giải Phóng (bằng tiếng Trung Hoa: Giải Phóng Thần Học - Thời Ðại Mạch Lạc đích Thuyên Thích/Thần học Giải phóng - Thông Diễn từ Nguồn Mạch Thời Ðại), Ðài Bắc: Nxb Quang Khải, 2009. Tập sách này tuy xuất bản muộn hơn, nhưng thực ra viết rất sớm. Nội dung chính được viết và sửa đổi lại từ luận văn Tiến sỹ Thần học năm 1989 của cha Chính. Trọng điểm của tập sách không phải là tranh luận về thần học giải phóng, mà đưa ra một quan điểm, cho rằng, "giải phóng" chỉ có thể hiểu trong nguồn mạch của thời đại và điều kiện xã hội (dân tộc). Mạch lạc tiếng Hán có nghĩa là nguồn mạch (context), khác hẳn nghĩa theo Hán Việt là rõ ràng, minh bạch.
- Thần Học Bản Vị Hóa Và Những Vấn Ðề Liên Quan (Học Viện Thánh Giuse của Dòng Tên, Lưu hành Nội bộ, 2018). Trong tập sách này, chúng ta thấy lối nhìn của Giáo sư Chính về một nền thần học, triết học Việt. Là tập hợp các công bố trong gần ba thập niên trên các Tập san như Thời Ðiểm (Mỹ), Ðịnh Hướng (Pháp), Dân Chúa Âu Châu (Ðức), Triết Ðạo (Mỹ)... tập sách chủ trương nền thần học hay triết học Việt hình thành theo phương cách bản vị hóa. Phương pháp thông diễn giúp ta hiểu rằng, bản vị hóa không chỉ đơn thuần là inculturation (đi vào, hội nhập văn hóa) hay acculturation (đến gần, tiếp cận văn hóa) mà đi sâu vào trong và biến thành một phần cơ thể, theo nghĩa incarnatio (biến thành xương, thịt). Mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể biến thành người, Et in carnatum est, bắt đầu với nhập thế. Nhưng nhập thế không phải là "nhập gia tùy tục" mà biến đổi thế giới đương sống (Lebenswelt) thành gần với hình ảnh toàn mỹ, toàn thiện của Thiên Chúa hơn. Bản vị hóa của nhà thần học Vũ Kim Chính phải được hiểu trong nghĩa này: trong con người Kitô hữu Việt có bản chất Việt, và trong con người Việt có bản chất Kitô. Tuy bản vị hóa chỉ được bàn kỹ hơn ở chương 4, nhưng các vấn đề liên quan đến văn hóa, tôn giáo, đời sống đức tin, và giáo hội hiện nay như đạo thờ kính tổ tiên chỉ có thể hiểu và được hòa hợp với đức tin Kitô nếu được thông diễn theo lối nhìn bản vị hóa.
Nhà Truyền Giáo Trí Thức
Giáo sư Chính cũng là một nhà truyền giáo. Truyền giáo tại Ðài Loan, Nhật, thật không dễ dàng gì. Người Ðài Loan ít coi trọng tu sỹ, ngoại trừ là những tu sỹ trí thức, nổi tiếng. Cha Chính truyền giáo trong môi trường đại học, và cha hiểu, sẽ chẳng ai nghe nếu không phải là một đại trí thức.
Ðại học Phụ Nhân, tiếng là đại học Công giáo, thậm chí Viện Thần Học thuộc đại học Giáo hoàng (pontifical), nhưng chưa tới 1% sinh viên, chưa đầy 7% nhân viên, ban giảng huấn, nghiên cứu sinh là người Công giáo.
Do đó, cách truyền giáo hay nhất là học thuật uyên bác và đời sống gương mẫu. Nhìn vào cha Chính, rất nhiều nhân viên, sinh viên cảm thấy được thế nào là Công giáo: tận tụy, phục vụ, khiêm nhường nhưng chắc chắn với đức tin, sống gương mẫu, đơn giản, bác ái đầy tình người. Tôi biết có vài giáo sư trẻ, vì quen biết cha Chính, mà gia nhập đạo Công giáo. Khá nhiều giáo sư Tin lành thay đổi thái độ đối nghịch và trở thành bạn của Công giáo.
Ngoài ra, cũng phải nói đến tình yêu cha Chính dành cho người Việt từ thời ở Áo cho tới thời sống ở Ðài Loan. Cha sẵn sàng bỏ giờ giấc đi tới thăm nom, giúp đỡ họ, không chỉ việc đạo mà hơn cả, là việc đời. Người nhập cư, tị nạn có rất nhiều chuyện cần được giúp đỡ.
Thay Lời Kết:
Người Ta Sẽ Nhắc Ðến Tên Cha là Người Chúa Yêu
Tôi viết bài này trong tiếng nhạc "Requiem" trang trọng bi hùng của Mozart, tiếng nhạc Ein deutsches Requiem bi tráng thấu tâm can của Brahms, tiếng nhạc Requiem buồn như lời kinh nguyện của Fauré, và nhất là lời kinh Mẹ Maria ca tụng Thiên Chúa "Magnificat" của Bach. Khi nghe Magnificat tới đoạn "Ecce enim ex hoc beatam me dicent omnes generationes / Và muôn đời sẽ nhớ đến tôi là người có phúc", tôi nghĩ ngay đến anh bạn, ngài giáo sư, ông tiến sỹ và trên hết vị linh mục Vũ Kim Chính của tôi.
Vâng, mọi người sẽ nhớ đến cha. Người Công giáo, giới tu sỹ quen cha, các tu sỹ Việt dòng Tên sẽ nhắc đến cha Chính như là linh mục thánh thiện, gương mẫu, uyên bác.
Rất nhiều học giả, sinh viên Ðài và Việt sẽ nhớ đến cha như là "sư biểu", một học giả đúng nghĩa.
Những người tị nạn và giáo dân Việt ở Áo, Ðài sẽ nhớ đến cha như đại ân nhân đáng kính, đáng yêu.
Giới triết học, nghiên cứu tôn giáo, thần học Ðài và Việt sẽ còn bàn đến tư tưởng của Vũ Kim Chính trong những buổi hội thảo như là nhà triết học sâu sắc.
Riêng tôi, cha Chính thân yêu luôn ở bên cạnh như người bạn, đồng đạo, đồng chí, đồng học, nhà tư vấn, người cổ động và người luôn cầu nguyện cho tôi.
Anh em Simon Hòa chúng tôi hãnh diện về người anh suất sắc.
Người Việt chúng tôi tại Ðài Loan có thể ngẩng đầu lên vì có cha giáo sư nổi tiếng họ Vũ.
Và tương lai Việt triết, Việt thần có triển vọng vì có triết gia, thần học gia như cha Vũ Kim Chính đồng hành.
Nguyện xin Thiên Chúa là cha nhân từ, là đấng Phán xét công bằng,
Nguời sẽ nâng cao những kẻ khiêm nhường (exultavit humiles), yêu Chúa, yêu Giáo hội, yêu quê hương như linh mục triết gia, thần học gia Vũ Kim Chính.
Requiescas in Domino, amice mee!
Tân Trúc, Ðài Loan, 17.10.2023
Trần Văn Ðoàn
Emeritus, National Taiwan University &
Member, Academia Catholica
- - - - - -
[1] Giống như Mỹ, học hàm Ðài Loan gồm: Giảng viên (Instructor), Giảng sư (Lector), Giáo sư Trợ lý
(Assistant Professor), Phó Giáo sư (Associate Professor) và Giáo sư (Professor, hay Full Professor).
Trong cấp bậc Giáo sư (Full Professor) có thể có thêm danh: Giáo sư Giảng tòa (Chair Professor),
người có quyền hành, uy tín lớn nhất (cả đại học có rất ít Giảng tòa), Giáo sư Ðặc cách (Dístinguished
Professor), người có công cho đại học, hay nghiên cứu nổi tiếng, Giáo sư Nghiên cứu (Research
Professor), chuyên nghiên cứu không dậy học. Nhưng những loại giáo sư nổi tiếng này thường chỉ có
trong các đại học lớn và nổi tiếng.
[2] Về phía học giả Công giáo Việt, ngoài Giáo sư Vũ Kim Chính, Giáo sư linh mục Phan Ðình Cho từng được vinh danh trong một hội thảo về cha tại Ðại học Georgetown, 2019 dịp 70 tuổi, và Giáo sư Trần Văn Ðoàn được vinh danh 5 lần (dịp 50, 60, 65, 70 và 75 tuổi).