- giáo lý đạo
- bí tích hôn nhân
- những điều cần tin, làm và
giữ.
Khi sửa soạn hôn nhân bạn nên ôn lại về giáo lý. Sau đây là tóm tắt về giáo lý.
Ðạo là con đường dẫn lên Chúa. Chỉ có con đường chính nhất là con đường Chúa mạc khải cho ta qua Thánh Kinh, qua Chúa Giêsu, qua Giáo hội sau khi Chúa về trời. Theo đạo chính là đến gặp Chúa chấp nhận lời Chúa mạc khải qua lý trí là tin theo những gì Chúa dậy và hội thánh truyền, qua ý chí là sống đạo theo qui luật của Chúa và qua tâm hồn là chấp nhận Chúa là tất cả trong cuộc sống của mình. Sự chấp nhận đó chính là niềm tin: Ai tin và chịu phép rửa tội thì được sống đời đời. Khi ta sống sự sống của Chúa là ta sống đời đời và cuộc sống này chỉ là sửa soạn cho cuộc sống mai sau. Tin chưa đủ mà còn phải thể hiện qua cuộc sống. Nghi lễ rửa tội cụ thể hoá niềm tin và sự chấp nhận Chúa trong cuộc sống.
Mạc khải cho ta hay Chúa là Ðấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình như con người với vũ trụ vật chất và vô hình như thiên thần. Lý chứng hay nhất cho thấy phải có Chúa chính là nhìn xem trời đất muôn vật liền biết có Chúa tạo thành. Chúa có ba ngôi Cha Con và Thánh Thần đã được mạc khải do Chúa Giêsu trong kinh thánh. Hai lần ta thấy nói về Chúa Ba Ngôi khi Chúa chịu phép rửa trên sông Hoà giang thì có tiếng phán từ trời (Ngôi Cha) nói về Chúa Giêsu (Ngôi Con) "Này là con ta" và hình chim bồ câu (Thánh Thần). Khi đi giảng đạo Chúa Giêsu nói về Ba Ngôi nhiều lần như :"Ðấng an ủi do Cha sai đến nhân danh Ta sẽ dậy các con mọi điều" và khi sai môn đệ đi giảng đạo ngài nói: "Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
Mạc khải cũng cho ta hay trong ba ngôi có ngôi thứ hai ra đời làm người. Maria được truyền tin chịu thai không có sự can thiệp của người nam và Mẹ đã sinh hạ Chúa Giêsu tại Bethlehem. Mẹ sinh con mà vẫn còn đồng trinh vì Mẹ đồng trinh trọn đời: trước khi sinh, đang khi sinh và sau khi sinh Mẹ luôn đồng trinh. Do công nghiệp Con Mẹ nên khi Mẹ sinh ra Mẹ được giữ gìn không mắc tội tổ tông và vì thế Mẹ lên trời cả hồn xác, cũng như vì sinh ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa, mà bản tính Thiên Chúa kết hợp mật thiết với xác thể Chúa Giêsu nên cũng gọi Mẹ là Mẹ Ðức Chúa Trời. Chúa Giêsu như thế có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại, trong một nhân vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa. Có ba mầu nhiệm, là điều có thực nhưng vượt qua hiểu biết của nhân loại, là Màu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Màu Nhiệm Chúa ra đời và màu nhiệm Chúa cứu chuộc. Ðó là ba mầu nhiệm chính, nhưng ta tin không phải vì ta hiểu nhưng dựa vào Chúa là Ðấng thông minh vô cùng, không sai lầm và cũng không đánh lừa ta. Ba Ngôi cùng một bản tính một quyền phép nên ba ngôi bằng nhau. Khi ta làm dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ta tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba ngôi đồng thời muốn hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa: những gì ta nghĩ nơi đầu óc (trán) những gì ta yêu mến (nơi trái tim) và những hành động của ta (nơi hai vai).
Chúa ra đời cách đây 1992 năm tại Do thái, miền trung đông, tại Bethlehem miền nam nước Do thái. Mẹ Ngài là Maria và cha muôi là Giuse thuộc hoàng gia David. Sau khi ẩn dật 30 năm, ngài giảng đạo trong 3 năm cuối cùng và chịu chết trên thập giá đời Pontius Pilatus là tổng trấn. Sau khi chết ba ngày ngài sống lại và lên trời. Ngài sẽ trở lại trần gian trong ngày tận thế để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tuy nhiên trước khi về trời ngài lập ra Hội Thánh khi chọn 12 môn đệ đầu tiên và chọn Peter là thủ lãnh. Những người tin Chúa cùng nhóm 12 lập thành Giáo hội với thủ lãnh là các tông đồ (các giám mục hiện nay) với các trưởng lão giúp việc (các linh mục hiện nay) và các thày sáu và những tông đồ giáo dân khác. Nhưng theo thánh ý của Chúa thì Peter chiếm địa vị độc đáo thủ lãnh các tông đồ và giáo hội nên người kế vị thánh Peter (Ðức Giáo Hoàng) là thủ lãnh hữu hình của Giáo hội và là cha phó của Chúa Kitô ở trần gian. Qua dòng lịch sử các Giáo Hoàng đóng trọn vai trò này và ngài có ơn không sai lầm khi phán quyết từ ngai toà thánh Phêrô (ex cathedra) về những vấn đề liên quan đến đức tin và phong hoá. Các tín hữu phải vâng lời ngài mới là tín hữu đích thực. Khi rao giảng Chúa còn lập ra bí tích như rửa tội, thêm sức, giải tội, Mình Thánh Chúa, truyền chức, hôn phối và sức dầu bịnh nhân. Các bí tích là dịp cho ta gặp Chúa để ngài ban ơn tuỳ hoàn cảnh và giai đoạn cuộc sống như trong bí tích hôn phối ngài ban ơn cho hai vợ chồng yêu thương nhau và chu toàn trách nhiệm và bổn phận của hôn nhân.
Sau khi về trời Chúa cũng ban Thánh Thần là ngôi ba tiếp tục công việc của Ngài trong Giáo hội ngài là ngôi Thiên Chúa cùng bản tính và quyền phép như hai ngôi kia, trong bí tích hôn phối cũng như trong các bí tích chính ngài hiện diện ban Chúa Giêsu hay nối kết con người trong tình yêu nhau (như trong bí tích hôn phối) vì ngài có danh hiệu là Tình Yêu của Thiên Chúa, là Sức mạnh, là Trạng Sư, là Ðấng An Ủi.
Ai tin và chịu phép rửa thì là tín hữu. Người tín hữu có bổn phận phải tuân giữ 10 giới răn của Chúa đã được Chúa ban cho dân Do thái xưa và 6 điều răn hội thánh giải thích và cụ thể hoá những gì phải làm để tuân theo 10 giới răn trên. Cách cụ thể người công giáo phải lo tránh tội lỗi vì tội nghịch lại niềm tin, tội chính là ngoan cố chống lại Thiên Chúa. Khi có tội trọng thì con người không còn hiệp thông với Chúa nữa, đánh mất sự sống siêu nhiên và xa lìa thiên đàng. Muốn trở lại họ phải thống hối tức là ghét tội vì tội phạm đến Chúa là đấng nhân lành. Kinh ăn năn tội diễn tả tâm tình thống hối đích thực: ghét tội vì yêu mến Chúa. Nếu không xưng thú tội kịp mà chết thì nguyên việc ăn năn tội cách trọn có thể giúp cho ta lên thiên đàng. Mỗi ngày trước khi đi ngủ nên có thói quen ăn năn tội cách trọn. Tuy nhiên còn phải xưng thú tội với linh mục là đại diện giáo hội. Phải xưng thú rõ ràng bao nhiêu lần, tội gì và hoàn cảnh mang đến tội. Sau khi xưng thú linh mục sẽ khuyên ta và ra việc đền tội chúng ta phải lo chu toàn ngay kẻo quên.
Ngoài ra, người công giáo còn phải lo việc phụng thờ Thiên Chúa qua việc dự và dâng thánh lễ mỗi ngày chủ nhật cũng như trong những lễ buộc và lễ trọng. Khi dự lễ cần phải hiện diện vật lý và chú ý, nhất là nên chịu lễ để việc thờ phượng Chúa nên trọn vẹn. Bài giải thích Phúc âm trong lễ là cần thiết cho việc sống đạo nên cần phải hiểu và thi hành, nếu bỏ không nghe, nghe mà không hiểu, hiểu mà không thực hành thì việc tham dự thánh lễ của mình rất thiếu sót. Ngoài ra mỗi năm có hai ngày ăn chay kiêng thịt là ngày thứ sáu tuần thánh và thứ tư lễ tro chúng ta phải chu toàn. Ăn chay là ăn một bữa no mà thôi và kiêng thịt là kiêng mọi thứ thịt trong ngày đó. Từ 18 đến hết 60 phải ăn chay và từ 14 đến hết 60 phải kiêng thịt.
Người công giáo phải siêng năng cầu nguyện. Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa, nên không phải là đọc kinh vì kinh chỉ là những mẫu giúp ta cầu nguyện với Chúa. Có ba mẫu kinh quan trọng là kinh Lạy Cha do Chúa Giêsu dậy ta cầu nguyện, kinh Kính Mừng là lời tung hô Mẹ Maria trong kinh thánh và của Giáo hội. Kinh Sáng danh là kinh các Thiên Thần hát trên thiên đàng. Muốn cầu nguyện chúng ta cần phải học hỏi, đọc kinh thánh, biết cách suy tư theo kinh thánh, nhưng trên hết là lắng nghe Chúa nói trong lòng ta. Tội lỗi, đam mê và tính xấu là những tiếng ồn ào trong linh hồn làm cho ta không nghe được lời Chúa nữa và không giúp ta cầu nguyện. Khi cầu nguyện không phải chỉ xin ơn mà ta còn cám ơn thờ lậy, dâng hiến, xin cha tha tội lỗi và xin những ơn cần cho linh hồn nữa chứ đừng chỉ xin những ơn vật chất.
Thánh Lễ Misa là lời cầu nguyện tốt đẹp nhất trong đó ta thờ lạy, ca tụng, cám ơn Chúa cũng như xin ngài ban những ơn cần cho cuộc sống và linh hồn. Khi chịu các bí tích nhất là khi xưng tội rước lễ là lúc ta kết hợp cầu nguyện với Chúa, đừng làm những việc ấy với tính cách máy móc hay chiếu lệ. Muốn rước lễ ta phải sạch tội trọng, có ý ngay lành và không ăn uống gì trước một tiếng đồng hồ. Ngoài ra là người công giáo chúng ta có bổn phận truyền giáo và xây dựng hội thánh trong việc đóng góp cho nhà thờ, tuỳ theo khả năng vì quên lãng là lỗi công bình với giáo hội.
Nhưng trên hết người công giáo phải giữ công bình và bác ái. Công bình đòi ta phải trả cho người khác cái mà họ có quyền có, đó là tôn trọng quyền tư hữu. Như thế chúng ta không được lấy của ai, làm thiệt hại của ai, gian lận bóc lột người khác và quên lãng để cho anh em phải túng đói.
Chúa còn dậy ta phải yêu thương người khác như chính mình nghĩa là phải yêu thương như yêu mình. Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân, nguyên tắc này đã được Chúa nói đến cách tích cực hơn trong tin mừng: "Hãy làm cho người khác điều con muốn làm cho con." Yêu thương theo tinh thần công giáo là yêu như Chúa, yêu vì Chúa, yêu mà nâng cao nhân vị con người, yêu mà hi sinh mạng sống, yêu mà muốn tốt, nói tốt và làm tốt cho người khác, yêu mà tha thứ cho cả kẻ thù, yêu mến kẻ thù và nhìn mọi người như là Chúa Giêsu đang hiện diện. Muốn thi hành điều này cần cầu nguyện, năng chịu bí tích nhất là xa lánh tội lỗi.
10 giới răn Chúa tóm lại trong hai điều: bổn phận với Chúa và bổn phận với tha nhân.
Với Chúa phải yêu mến ngài hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực trong việc dự lễ ngày Chúa nhật, cũng phải kính trọng Thiên Chúa, đừng kêu tên ngài vô ích, nói lộng ngôn. Không được thờ ma quỉ khi tin dị đoan bói toán theo kiểu tin những điều vô lý. Còn việc tôn kính chứ không phải thờ lạy ông bà như thờ Chúa thì không cấm đoán mà còn khuyến khích. Phải phân biệt sự tôn thờ và tôn kính, tôn thờ chỉ dành cho Thiên Chúa, và tôn kính dành cho ông bà cha mẹ những người trên của ta.
Với tha nhân Chúa đòi ta phải kính trọng có hiếu với cha mẹ, kính trọng thân xác, giữ sức khoẻ đừng hạ thấp nó, giữ mạng sống và cơ thể của mình cũng như của tha nhân, kính trọng bản năng tình dục và của cải, lại phải thành thực trong lời nói, tôn trọng danh giá kẻ khác cũng như biết sử dụng tiền bạc cho đúng ý Chúa. Tiền bạc là tên đầy tớ có ích và ông chủ độc tài. Hãy dùng tiền của mua thiên đàng khi đóng góp, bố thí và tiêu pha cho hợp lý.
Tình dục là bản năng cần phải sử dụng với lý trí vì mục đích của nó cao cả nên không được coi nó là mục đích của hôn nhân. Nó chỉ là phương tiện để bày tỏ tình yêu chứ không phải mục đích. Như thế tình dục chỉ được sử dụng để sinh sản, vì tình yêu vợ chồng, còn sử dụng cho những trường hợp khác là dùng sai ý Chúa là có tội. Mọi cử chỉ âu yếm nhau, nếu là trong tình yêu vợ chồng, đều hợp pháp còn ngoài ra đều sai lầm, tội lỗi. Những việc sử dụng tình dục trái thiên nhiên như thủ dâm, với người cùng phái, đều là trọng tội theo lời lên án của Kinh Thánh, tức là theo phán quyết của Chúa. Những tư tưởng tội lỗi vì sẽ đưa đến tội lỗi và cả những ý định tội lỗi, cũng là tội phạm, như lời Chúa phán: "Nhìn người nữ mà ước ao phạm tội với nó cũng là phạm tội ngoại tình rồi".
Vấn đề thành thật trong lời nói cũng rất quan trọng. Chúa phán: có có, không không, thêm bớt là do ma quỉ. Không bao giờ được phép nói dối dù nói có hại hay không có hại, nói để bảo vệ mình hay người khác.. tóm lại không bao giờ được phép nói dối.
Về công bằng nếu ta lấy hay làm thiệt hại hay mắc nợ ai điều gì chúng ta phải trả vì không trả bây giờ sẽ phải trả sau này. Như thế khi đi xưng tội này, dù cha không nói gì, phải hiểu ngầm là ta phải trả đền nếu không biết cách trả hay trả cho ai, thì có thể hỏi linh mục.
Các tội lỗi có 7 nguyên nhân thường kêu là bảy mối tội đầu là kiêu ngạo, hà tiện, tà dâm, mê ăn, ghen ghét, lười biếng, hờn giận. Muốn diệt tội chúng ta phải tiêu diệt những nguyên nhân tội trên. Ta xét xem mình có nguyên nhân tội nào thì lo diệt nguyên nhân tội đó.
Ðể xét tội Chúa cho ta lương tâm là phán đoán thực hành tính cách đạo đức của những hành vi nhân linh. Lương tâm có thể quá rộng rãi hay chật hẹp, phải huấn luyện cho mình có lương tâm chính đáng, ngay thẳng, lương tâm tốt để có thể xét tội hay việc lành. Tội chỉ là tội khi có luật cấm, biết rõ có luật cấm lại còn ngoan cố và trong tình trạng tự do không bị áp lực bên ngoài hay nội tâm để phạm tội. Ðó mới là có tội thôi, còn tội nặng nhẹ tuỳ theo chất liệu, hoàn cảnh và những hậu quả của tội ấy.
Những phương pháp để tránh tội là đừng bao giờ ở nhưng, say sưa, lại phải năng cầu nguyện và chịu các bí tích.
Là con người ta có thân xác và linh hồn, nên nhớ thân xác cao quí và sau này sẽ chung hạnh phúc với linh hồn trên thiên đàng chúng ta phải kính trọng thân xác khi ăn mặc nết na, săn sóc sức khoẻ, nuôi nấng bằng những tư tưởng lành mạnh và đừng phí phạm sức khoẻ trong rượu chè cờ bạc hay lao động quá sức. Việc nghỉ ngơi trong ngày chủ nhật cũng là một bổn phận nên giáo hội dậy ta kiêng việc nặng nhọc trong ngày của Chúa.
Linh hồn ta là hình ảnh Chúa nên bất tử. Khi chết linh hồn ra khỏi xác đến trước toà Chúa để nghe phán xét về cuộc đời mình. Nếu đã chối bỏ Chúa thì việc đó được chính thức hoá trong hoả ngục không bao giờ thay đổi tình trạng. Nếu chỉ là những yếu đuối Chúa cho thời gian thanh tẩy trong luyện ngục và khi thanh thoát hoàn toàn sẽ lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Chúng ta có thể cầu cho những người trong luyện ngục bằng việc xin lễ hay cầu nguyện, làm các việc lành để cầu cho họ. Còn ai thánh thiện hoàn toàn sẽ lên thiên đàng. Lâu lâu giáo hội dùng quyền bất khả ngộ tuyên bố người nào chắc chắn lên thiên đàng thì đó là ghi tên người đó vào sổ bộ (canon) của các thánh và những vị đó được cả giáo hội tôn kính sau khi Ðức Giáo Hoàng phong thánh (canonisation) cho các ngài.
Bốn sự sau là chết, thiên đàng hoả ngục, phán xét chung hay riêng. Phán xét chung là khi tận thế, mọi người đều chết, lúc đó Chúa sẽ phán xét chung và chia thế giới thành hai: nơi hạnh phúc đời đời và chốn khổ đau đời đời. Những điều này đã được nói tới trong thánh kinh do Chúa mạc khải.
Việc lành chính là những hành động đạo đức làm trong tình trạng không mắc tội trọng. Muốn thế cần phải có thiện ý và những phương tiện dùng phải tốt hay ít là dửng dưng, còn nếu phương pháp xấu thì làm cho việc ra xấu. Người công giáo phải lo làm việc lành và việc tránh tội cũng là một việc lành tuy nhiên bác ái yêu thương chính là việc lành quan trọng và đáng kể nhất. Việc lành cũng là tập các nhân đức là những tập quán tốt do ta tập được đến chỗ thành thói quen tốt. Cũng có những nhân đức Chúa ban cho ta, cho ta thói quen yêu mến cậy trông vào ngài. Phải làm cho những nhân đức đó lớn lên bằng bác ái và cầu nguyện nhiều.
(C) Copyright 1992
by Rev. Ngo tuong Dzung, Texas, USA.