Ngày
27 tháng 10 năm 2002
Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm A
Ðọc
Tin Mừng Mt 22,34-40
34
Khi nghe tin Ðức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng,
thì những người Pharisêu họp nhau lại. 35 Rồi một
người thông luật trong nhóm hỏi Ðức Giêsu để thử Người
rằng: 36 "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều
răn nào là điều răn lớn nhất?" 37 Ðức Giêsu
đáp: "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Ðó
là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. 39
Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả
Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều
răn ấy".
Gợi
ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Gương mến Chúa và yêu người
sống động nơi trại tập trung Ðức Quốc Xã
Nhật
báo Kitô hữu Chứng Nhân (Témoignage Chrétien) kể lại một
câu chuyện thật cảm động xảy ra năm 1941 trong thế chiến thứ
hai.
Có một vị linh mục bị Ðức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao người khác, cha bị hành hạ và ngược đãi tàn tệ, còn hơn cả súc vật. Thế nhưng vị linh mục này vẫn vui vẻ tìm cách giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang bị khủng hoảng và tuyệt vọng.
Chính
cha xin với viên cai tù cho đi lao động thay thế những người
đau yếu. Phần bánh mì ít ỏi của cha có khi được dành cho
những người có nhu cầu hơn. Ðối với người vận đồ rách
rưới, cha cũng chia sẻ những chiếc áo cũ tương đối còn
lành lặn.
Trong
hoàn cảnh đầy nguy hiểm, cha vẫn lặng lẽ giấu kín lý lịch
bản thân là người Công Giáo, hơn nữa còn là một linh mục!
Chỉ có một vài người rất thân thiết mới biết rõ ngài
là ai.
Trong
số những người được vị linh mục này giúp đỡ, có một
cậu thiếu niên vốn là một kẻ bụi đời, lớn lên nơi đầu
đường xó chợ, không tin bất cứ ai, lại còn ngang tàng trộm
cắp để kiếm sống. Cả ở trong trại tập trung, cậu cũng luôn
cướp giật, quấy nhiễu mọi người.
Vị
linh mục khả ái đã từng bước, tìm cách tiếp cận, trò
chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải
được con người tưởng đã trở nên chai lì và vô phương
cứu chữa. Dẫu vậy, ngài thấy vẫn chưa đến lúc nói với
kẻ mới hoán cải về Thiên Chúa.
Thế
rồi, một hôm, cha được tin bản thân sẽ bị chuyển gấp tới
trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ nghe danh xưng,
trại viên cũng phải kinh hoàng khiếp sợ, vì đó là nơi hủy
diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Ngài cố giữ bình tĩnh khi vội vã chia tay mọi người. Ðứng
trước mặt cậu thiếu niên vừa mới quyết định hoàn lương,
ngài rất muốn giúp cậu hiểu biết về Chúa, tin Chúa và theo
Chúa.
Cha
nhìn thẳng vào mặt cậu, nhỏ nhẹ hỏi "Này, cháu yêu của
bác, cháu có muốn tin vào một người tên là Giêsu không?"
Cậu thiếu niên đứng thẳng người lên, trả lời cha bằng
một câu hỏi chân thành: "Nhưng thưa bác, ông Giêsu là ai,
để cháu có thể tin?" Biết mình không còn thời gian để cắt
nghĩa Kinh Thánh và giới thiệu chi tiết về Ðức Giêsu, cha yên
lặng một chút, ngẫm nghĩ rồi buột miệng nói với cậu: "Người
đó giống như bác!" Cậu thiếu niên đăm đăm nhìn ngài rồi
khẳng khái tuyên xưng: "Vâng, nếu ông Giêsu ấy là một người
giống như bác, thì cháu tin!"
Sau
thế chiến, người ta không còn gặp lại vị linh mục ấy nữa,
nhưng chắc chắn một điều là câu chuyện này được một người
sống sót, qua các trại tập trung thuật lại như một chứng từ
sống động, người ấy chính là cậu thiếu niên năm xưa, giờ
đã là một người tân tòng Công giáo.
Chúa Giêsu đưa hai điều răn
ấy sống động nơi con tim con người
Câu
chuyện có thực vừa kể giúp ta lãnh hội ý của Ðức Giêsu
muốn nói với người thông luật là kẻ đã nêu vấn đề
"Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều
răn lớn nhất?" (Mt 22,35). Ý của người thông luật này là
muốn biết điều răn nào là điều răn lớn nhất trong toàn
bộ Cựu Ước. Ðức Giêsu trả lời cho thấy không những điều
răn lớn nhất là "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi"
(Ðnl 6,5), nhưng còn cho thấy điều răn cũng giống điều răn ấy
là ngươi phải yêu người thân
cận như chính mình (Lv 19,18). Ðiều khiến cho hai điều răn
này giống nhau là ở tình yêu được thể hiện nơi con tim con
người. Ngang qua con tim, người
tin vào Giavê Thiên Chúa mà yêu mến Ngài "hết lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn người đó, thì cũng ngang qua con tim, người
đó phải phải yêu người thân cận như chính mình.
Như
vậy, Ðức Giêsu đưa người thông luật từ ý niệm trừu tượng
về điều răn lớn nhất tới hành động cụ thể nơi con tim
người tín hữu. Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn, thì trong cụ thể, cũng phải yêu thương người bên cạnh
như chính mình. Sau này thư thứ nhất của Gioan sẽ nói: "Nếu
ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người
ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương anh em mà họ trông
thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông
thấy" (4,20).
Nhưng
cần phải trở về với Cựu Ước là bối cảnh nơi người
thông luật nêu vấn đề, trước khi bàn tới Tân Ước.
Mười
điều răn được công bố trên núi Sinai, tóm tắt các trách
nhiệm dân Thiên Chúa. Giavê Thiên Chúa ban mười điều răn
này cho dân Giao Ước khoảng năm 1450 trước Công Nguyên. Mười
điều răn này được ghi khắc trên hai bia đá sau được lưu
giữ trong một chiếc hòm, gọi là hòm bia, như là những vật
thánh thiêng nhất trong đạo của Cựu Ước.
Mười
điều răn xuất hiện ở hai bản văn Cựu Ước (xh 20,2-17 và
Ðnl 5,6-21). Mười điều răn này diễn tả cốt lõi của mối tương
quan mà Giavê Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải duy trì đối
với Ngài. Theo những điều Ngài đòi hỏi dân phải giữ, ta
cũng biết được về chính bản thân Ngài. Vậy Mười điều
răn không chỉ nói với dân Ítraen nhưng còn nói với cả loài
người qua mọi thời về Thiên Chúa, Ðấng tạo thành nên mọi
người và mọi sự. Các điều răn đều được lập lại dưới
hình thức nào đó trong Tân Ước, với điều răn "giữ
ngày sabát" trở thành điều răn "giữ ngày Chúa Nhật".
Có
thể tóm tắt mười điều răn như sau:
Tấm
bia thứ nhất dạy ta về tương quan đối với Thiên Chúa qua 4
điều răn là:
1.
Không được thờ Thiên Chúa nào khác
2.
Không được thờ ngẫu tượng.
3.
Không được kêu tên Thiên Chúa vô cớ.
4.
Phải giữ luật ngày Sabát.
Tấm
bia thứ hai dạy ta về tương quan đối với đồng loại với 6
điều răn là:
5.
Hiếu thảo đối với mẹ cha.
6.
Không được giết người.
7.
Không được phạm tội ngoại tình.
8.
Không được lấy của người khác.
9.
Không được làm chứng gian.
10.
Không được ước ao của người khác.
Mười
điều răn đều nhắm mục đích tích cực là hướng dân Thiên
Chúa tới cuộc sống tròn đầy như được Thiên Chúa dựng
nên, theo lời ông Môsê tuyên bố với dân: "Anh em hãy đi
đúng con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã
truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và
được sống lâu trên mảnh đất mà anh em sẽ chiếm hữu" (Ðnl
5,33). Ai cũng cần được Thiên Chúa hướng dẫn hầu tránh những
chọn lựa có hại cho bản thân và người khác, đồng thời
hưởng được tình thương của Thiên Chúa.
Ðức
Giêsu đến công bố Nước Thiên Chúa nhằm giúp người ta đạt
tới các mối phúc thật (Mt 5,1-12). Các mối phúc thật này
không dựa trên cơ sở một thứ tình yêu siêu việt trừu tượng.
Con người hạnh phúc thật phải nghiệm thấy nơi con tim của mình
sự tràn ngập do tình yêu Thiên Chúa, nhờ đó có sức mạnh
để yêu tha nhân như chính mình.
Con đường của các mối phúc
Vậy
mối phúc đích thực số một phải là sở hữu Nước Thiên
Chúa. Con người nghèo tận căn sẽ "yêu mến Thiên Chúa hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (Mt 22,37). Người đó không
còn bị vướng mắc do đam mê nào, cho nên dễ dàng nhận ra mọi
sự và cả tạo thành, đều do Thiên Chúa ban. Cho nên người
đó, có thể nói, sở hữu được Nước Thiên Chúa như lời
Chúa Giêsu dạy: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước
Trời là của họ" (Mt 5,3). Ðúng như lời người cha nhân hậu
nói với con cả trong Tin Mừng Luca: "Con à, lúc nào cũng
ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc
15,31).
Ðiều
mà mối phúc thứ hai nhắm là "được
đất Thiên Chúa hứa làm gia nghiệp" (Mt 5,4). Ðất hứa
nói đây chính là Nước Thiên Chúa. Người thụ hưởng sẽ
chẳng còn phải bon chen để tranh dành ảnh hưởng. Ngược lại,
người đó chỉ còn sung sướng làm cho Nước đó được
chan hoà dưới sự lãnh đạo của Ðấng kêu gọi mọi người
học với Người để sống hiền hậu và khiêm nhường (x. Mt
11,29). Ðó là con đường tốt nhất để yêu tha nhân như chính
mình.
Ðiều
mà mối phúc thật thứ ba nhắm là được
chính Thiên Chúa ủi an (Mt 5,5). Ðể được phúc lành đó,
người thụ hưởng cần dựa vào sức mạnh của tình yêu của
chính Thiên Chúa, để gánh vác trên vai biết bao hậu quả của
tội đang hoành hành trên thế giới. Ðó thực sự là con
đường thánh giá đưa tới vinh quang. Người đi trên con
đường này, sẽ có thể yêu tha nhân như chính mình dưới sự
lãnh đạo của Chúa Giêsu.
Ðó
chính là con đường mà vị linh mục của trại tập trung Ðức
Quốc Xã trong câu chuyện nói trên, đã đi và đã được chính
Thiên Chúa ủi an trong Nước của Ngài.
Một
số câu hỏi gợi ý
1.
Bạn tâm đắc được gì về câu chuyện nói trên: liên quan tới
vị linh mục ẩn danh? Liên quan tới cậu thiếu niên bụi đời
nay là người Công giáo tân tòng?
2. Bạn hiểu gì về các mối phúc liên quan tới giới răn mến Chúa và yêu người?