Ngày
11 tháng 08 năm 2002
Chúa Nhật 19 Thường Niên Năm A
Ðọc
Tin Mừng Mt
14,22-33
22 Ðức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ
bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. 23
Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện.
Tối đến, Người vẫn ở đó một mình. 24 Còn chiếc
thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh
vì ngược gió. 25 Vào khoảng canh tư, Người đi trên
mặt biển mà đến với các môn đệ. 26 Thấy Người
đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy!",
và sợ hãi la lên. 27 Ðức Giêsu liền bảo các ông:
"Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" 28 Ông
Phêrô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài,
thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài."
29 Ðức Giêsu bảo ông: "Cứ đến!" Ông Phêrô từ
thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Ðức
Giêsu. 30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và
khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!"
31 Ðức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói:
"Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?" 32
Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. 33 Những
kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài
là Con Thiên Chúa!"
Gợi
ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Năm
1974, một nhà quí tộc Ba Lan - linh hoạt và có quan điểm thế
giới chủ nghĩa - bước vào phòng làm việc của vị hồng y
giáo chủ, tin tưởng rằng bà đã tìm được người có quan
điểm gần gũi về mặt triết học. Tên bà là Thùy Minh Kha
(Anna - Teresa Tymiennecka). Trong bốn năm tiếp theo đó, bà và hồng
y giáo chủ đã lao vào một cuộc đối thoại triết học độc
nhất vô nhị, đưa tới một ấn bản tiếng Anh rõ ràng và có
sửa chữa của tác phẩm quan trọng nhất của hồng y giáo chủ,
là cuốn Con Người và Hành Ðộng.
Hãy triệu tập cho Ta những người
trung hiếu (Tv 49,5)
"Hồng
y giáo chủ ấy, chính là Ðức Gioan Phaolô II. Bà Thùy Minh Kha
đánh giá như sau về Ðức Giáo Hoàng đương kim: "Sức mạnh
lớn nhất ở Giáo Hoàng, sức hấp dẫn đặc biệt này, là
giống như Chúa Giêsu. Nó bao hàm những gì? Ông gặp ai đó
lần đầu tiên trong đời, ông cũng có thể mở ra cho người
ấy cái kho báu được giấu kín của tình anh em. Bản thân Giêsu
cũng không làm hơn thế được. Ðó là vì sao mà người ta
bị quyến rũ bởi ông. Với nụ cười của mình, thái độ tình
cảm nồng ấm thật quyến rũ, Giáo Hoàng đã gởi gắm hết mình
như thể người kia là anh em gần gũi nhất, người bà con thân
thiết nhất. Ðây không còn là vấn đề giả bộ hay thực tế
nữa. Ðó là bản chất.
Mọi
người xung quanh ông thấy ở ông một con người nồng hậu
nhất, khiêm nhường nhất. Họ không bao giờ thấy cái ý chí
sắt đá ở đàng sau đó. Ðó chính là Giáo Hoàng. Phong cách
của ông hoàn toàn thoải mái. Những gì không thể tin nổi đang
diễn ra trong đầu ông, người ta không nhìn thấy. Thái độ
thông thường của ông với những người khác là mềm mỏng.
Ý chí sắt đá của ông được tôi luyện với sự mềm mỏng
này và sự thận trọng lớn lao. Nó không bộc lộ mình cách
trực tiếp. Ở một mức độ nào đó, điều này là giả tạo.
Nhưng đó là bản chất thứ hai, hoàn toàn không phải là giả
tạo. Có thể là ông đã luôn luôn như thế này. Người ta
nhìn những tấm ảnh của ông thời niên thiếu: Một cậu bé
rất đáng yêu, rất suy tư, thậm chí hơi đa cảm.
(-)
Sự kiên trì là một đặc tính chủ yếu khác. Ông không bao
giờ thấy một trở ngại. Không có gì là một trở ngại cả."
(Ðức Giáo Hoàng John Paul II và lịch sử bị che đậy trong thời
đại chúng ta, Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân Hà Nội 1997 trg
254-255)
Trên
đây là lời mô tả về sức hấp dẫn đặc biệt của Ðức
Gioan Phaolô II. Bà Thùy Minh Kha muốn tóm tắt bằng cách nói
rằng Ðức Giáo Hoàng như vậy đã nên giống Chúa Giêsu. Nhưng
để nhấn mạnh hơn nữa sức hấp dẫn đó, bà nói rằng gặp
ai, dẫu là lần đầu tiên trong đời, Giáo Hoàng cũng có thể
tỏ ra gần gũi nhất, thân thiết nhất dựa vào tình huynh đệ
có sẵn nơi Giáo Hoàng, điều ấy theo bà, "bản thân Giêsu
cũng không làm hơn thế được"
Lời
khẳng định của bà Thùy Minh Kha liên quan tới Ðức Giêsu đòi
ta, một cách gián tiếp, phải định hướng đúng về ý nghĩa
của bài Tin Mừng hôm nay. Ðức Giêsu tỏ ra sức hấp dẫn
phi thường nhưng Người không qui hướng mọi người và mọi
sự xung quanh về với Người như đích điểm. Người luôn qui
hướng tất cả về Thiên Chúa là Cha. Ðó chính là hướng
huấn luyện Ðức Giêsu áp dụng với các môn đệ.
Trước
đây (Mt 4,12) khi Ðức Giêsu nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị bắt,
Người lánh đi... Nay nghe biết ông bị giết, Người rút lui vào
hoang địa (Mt 14,3-12). Chính nơi hoang địa, Ðức Giêsu tỏ ra là
Môsê mới của dân Thiên Chúa. Hơn nữa, Người là hiện
thân của Giavê Thiên Chúa thân hành tới chăm sóc đoàn
chiên như ngôn sứ Eādêkien từng loan báo (chương 34)
Những người đã giao ước với
Ta bằng hy lễ (Tv 49,5)
Song
song với bài Tin Mừng này của Mátthêu, ta có Tin Mừng Máccô
soi sáng cho thấy cách Ðức Giêsu huấn luyện các môn đệ.
Cả Mátthêu và Máccô đều cho thấy Ðức Giêsu bắt các môn
đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trong lúc Người giải tán dân
chúng (Mt 14,2; Mc 6,45). Tại sao lại có vụ cưỡng ép này? Ta
thấy các môn đệ đã tỏ ra quan tâm về nhu cầu cơm bánh của
dân nên Ðức Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho
hơn năm ngàn người ăn no. Chính các môn đệ đã dọn đồ
ăn cho dân chúng. Vậy thì tại sao về cuối bữa ăn lại có
sự can thiệp để chính Ðức Giêsu lo việc giải tán dân chúng,
còn các môn đệ buộc phải xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Lời
rao giảng đầu tiên của Ðức Giêsu cũng như trước đó của
Gioan Tẩy Giả là "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến
gần" (Mt 3,2; 4,17). Nước Thiên Chúa chẳng phải là lãnh thổ
nhưng chính là quyền uy Thiên Chúa được nhìn nhận nơi tạo
thành và Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, được phái đến để
thực hiện công trình đó. Giữa tạo thành, con người luôn
được mời gọi tham gia Nước Thiên Chúa với tất cả tự
do được ban cho mình. Theo cách đó bốn môn đệ đầu tiên đã
được mời gọi, gồm hai anh em là Anrê và Simon tức Phêrô;
và hai anh em nữa là Giacôbê và Gioan (Mt 4,18-22). Cả bốn người
này đều từ bỏ mọi sự để theo Ðức Giêsu.
Các
môn đệ được huấn luyện kỹ lưỡng. Bài huấn luyện đầu
tiên theo thánh Mátthêu dành ưu tiên cho các môn đệ. Ðức
Giêsu như Môsê mới lên núi và khi ngồi xuống, các môn đệ
đến gần bên. Người mở miệng dạy các ông về các mối
phúc thật (Mt 5,1-12). Các ông được dạy để sống nghèo, hiền
lành, nhận lấy những an ủi của Thiên Chúa ngang qua đau khổ,
khao khát sống công chính, thương người, giữ tâm hồn trong
suốt, xây dựng hoà bình, chịu bách hại vì sống đời công
chính. Tất cả những lời Ðức Giêsu dạy dân chúng, các môn
đệ đều được nghe và được kèm thêm khi thầy trò sống
tách biệt khỏi dân chúng.
Các
môn đệ không những được Ðức Giêsu dạy dỗ, họ còn
được Người phái đi thực tập trong tác vụ rao giảng (Mt
10). Ðề tài rao giảng sẽ là "Nước Thiên Chúa đã đến".
Sự hiện diện của Thiên Chúa là điều hiện thực tới mức
sự dữ như bệnh tật hoặc quỉ ám đều được khắc phục.
Tin tưởng vào Thiên Chúa, các môn đệ chẳng còn gì phải sợ.
Chính các ông cần nhận lấy Nước của Thiên Chúa thay thế
mọi sự khác: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì
không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất; còn
ai liều mạng sống vì Thầy thì sẽ tìm thấy được." (Mt
11,38-39).
Trong
bài Tin Mừng Máccô việc phái các môn đệ đi thực tập
được đề cập ở chương 6(6-13) rồi được tiếp nối giữa
hai trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều (Mc 6,30-44) và phép
lạ Ðức Giêsu đi trên mặt nước (Mc 6,45-52). Ở đây, Ðức
Giêsu không những dạy các môn đệ, Người còn nêu gương
sáng để các ông thấy rõ thế nào là đặt ưu tiên cho Nước
của Thiên Chúa.
Rất
sớm trong Tin Mừng Máccô, Ðức Giêsu đã tỏ ra là một nhân
vật hấp dẫn quần chúng. Người chữa lành bệnh nhân và trừ
quỉ hữu hiệu đến nỗi, theo Máccô, cả thành như xúm lại
trước cửa nơi Ðức Giêsu tá túc (Mc 1,33). Thế mà sáng sớm
hôm sau, lúc trời còn tối, Ðức Giêsu đã dậy, đi ra một
nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó (Mc 1,35). Rồi khi được
cho biết rằng mọi người tại Caphácnaum đang tìm Người,
Ðức Giêsu trả lời rằng: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến
các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa,
vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (Mc 1,38).
Ai sống đời hoàn hảo, ta cho
hưởng ơn cứu độ Chúa Trời (Tv 49,23)
Một
sự dứt bỏ tương đương như vậy được thấy giữa hai trình
thuật hoá bánh ra nhiều và đi trên mặt nước. Ta được cho
biết: "Ðức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ
bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi
giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện
(Mt 14,22-23).
Các
môn đệ cần phải dứt bỏ đám đông, dứt bỏ mọi ảo tưởng
mà xã hội có thể tạo nên cho mình, nhờ đặt mình trước
cảnh bao la của biển hồ Galilê sóng gió. Các ông cần phải
noi gương Ðức Giêsu là luôn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện
cùng Thiên Chúa. Chính từ bối cảnh cầu nguyện, Ðức Giêsu
đến với các ông, mang lại cho các ông ơn bình an. Tuỳ ở mức
độ tin vào Ðức Giêsu, ông Phêrô đi trên mặt nước để
đến với Ðức Giêsu. Ngược lại, giảm bới niềm tin đó,
ông liền bắt đầu chìm. Chính nhờ quyền năng của Thiên Chúa
được biểu lộ nơi Ðức Giêsu, nên các môn đệ nhìn nhận
"Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa." Một lần nữa, ta thấy
Ðức Giêsu dùng quyền năng để qui người ta về Thiên Chúa
thay vì qui về bản thân mình.
Một
số câu hỏi gợi ý
1.
Bạn thấy điều gì đáng kể về sức hấp dẫn của Ðức
Gioan Phaolô II như bà Thuỳ Minh Kha nhận xét: Mọi người xung
quanh thấy Ðức Giáo Hoàng là một con ngưòi nồng hậu nhất,
khiêm nhường nhất? Thái độ thông thường của Ðức Giáo
Hoàng là mềm mỏng? Sự kiên trì là một đặc tính chủ yếu
khác? Bạn có ý kiến khác?
2.
Bạn nghĩ tại sao Ðức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền
qua bờ bên kia trước (c22)?
3. Bạn nghĩ gì về lối so sánh sức hấp dẫn của Ðức Giêsu với sức hấp dẫn của Ðức Gioan Phaolô II theo bà Thuỳ Minh Kha?