Ngày
23 tháng 06 năm 2002
Chúa Nhật 12 Thường Niên Năm A
Ðọc
Tin Mừng Mt 10,26-33
Hôm
ấy Ðức Giêsu sai mười hai tông đồ đi và nói với các ông
ấy rằng: 26 "Anh em đừng sợ người ta. Thật ra không
có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí
mật, mà người ta sẽ không biết. 27 Ðiều Thầy nói
với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và
điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.
28
Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết
được linh hồn. Ðúng hơn, anh em hãy sợ Ðấng có thể tiêu
diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. 29 Hai con chim sẻ
chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào
rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. 30 Thì đối với
anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm
cả rồi. 31 Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá
hơn muôn vàn chim sẻ.
32
Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy
cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Ðấng
ngự trên trời. 33 Còn ai chối Thầy trước mặt thiên
hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy,
Ðấng ngự trên trời.
Gợi
ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Lệnh lên đường
Bài
Tin Mừng hôm nay là phần quan trọng của "Bài Giảng Về Sứ
Mệnh Truyền Giáo" (Mt 10). Các môn đệ được Ðức Giêsu
sai đi loan báo "Nước Trời đã đến gần" (Mt 10,7). Họ
được Ngài cho biết trước những khó khăn trên đường
thi hành sứ mạng của mình, một sứ mạng được so sánh với
hình ảnh "chiên đi vào giữa bầy sói" (Mt 10,16). Do vậy, bị
ngược đãi và bị bách hại là số phận thường tình của
những môn đệ trung thành với sứ mạng được trao.
"Như
Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian"
(Ga 17,18). Sứ mạng của người môn đệ tiếp nối sứ mạng
của Con Thiên Chúa đã lĩnh nhận từ Cha. Chính vì vậy, người
môn đệ cũng có chung số phận của Thầy "Nếu họ đã bắt
bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,20). Ðược sai
đến thế gian, sống giữa thế gian (x. Ga 17,11) nhưng các môn đệ
lại là những người không thuộc về thế gian (x. Ga 17,16) vì
họ đã được tuyển chọn và được tách khỏi thế gian bởi
Cha (x. Ga 17,6) và bởi Thầy Giêsu (Ga 15,19). Chính đây là lý
do của việc họ bị thế gian thù ghét và bách hại (x. Ga
15,19).
Vinh Quang nơi Thập Giá
Ðức
Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng chính cuộc khổ hình Thập
giá. Giờ tử nạn của Ngài cũng chính là giờ Cha tỏ bày
vinh quang cho Con Người (x. Ga 17,1-2). Ngay giây phút chết bi thương
trên khổ giá, Ðức Giêsu tỏ cho con người biết phẩm giá
cao quí nhất của mình: Ðó là phẩm giá làm con Thiên Chúa:
viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu,
thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người
này là Con Thiên Chúa" (Mc 15,39).
Vì
Ðức Giêsu, người môn đệ sẽ bị mọi người thù ghét (Mt
10,22). Thế nhưng, những đau khổ mà người môn đệ phải chịu
lại mang một ý nghĩa thật lớn lao, đó là "cùng chịu đóng
đinh với Ðức Kitô vào Thập Giá" (Gl 2,19). Như thánh Phaolô
xưa, người môn đệ của Ðức Kitô Giêsu qua bao đời vẫn
có thể nói: "những gian nan thử thách Ðức Kitô còn phải
chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho
thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1,24).
Trong
đức tin, người môn đệ vẫn hằng lấy mầu nhiệm Thập Giá
của Thầy làm vinh quang của mình "Vinh quang của ta là Thập Giá
Ðức Kitô. Nơi Ngài ơn cứu độ của ta, phục sinh của ta".
Người môn đệ là người được chính Thầy tỏ lộ cho biết
những mầu nhiệm Nước Trời (x. Mt 13,11), đó là mầu nhiệm
đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng
nay đã được tỏ ra cho họ (x. Cl 1,26). Mầu nhiệm này đã
được thánh Phaolô xác định cách rõ ràng, đó là mầu
nhiệm "Ðức Kitô đang ở giữa nhân loại, Ðấng ban cho con
người niềm hy vọng đạt tới vinh quang (x. Cl 1,27). Ðức Giêsu
muốn cho người môn đệ tiếp tục công cuộc tỏ bày mầu
nhiệm cứu độ ấy cho những ai chưa được nghe thấy: "Những
điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa
ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao
giảng (Mt 10,27). Vì mục đích và sứ mạng rao giảng này, người
môn đệ phải vất vả chiến đấu (x. Cl 1,29), nhưng chính Ðức
Giêsu Phục Sinh vẫn hằng hoạt động mạnh mẽ nơi người môn
đệ, khi họ thi hành sứ mạng được trao. Người môn đệ
luôn cảm nhận một sức sống trào dâng nơi đời mình, một
sự sống nhiệm mầu được diễn tả bằng câu nói: "Tôi sống
nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi"
(Gl 2,20).
Có Ðấng Phục Sinh đồng hành
Vì
có Ðức Kitô Phục Sinh đồng hành trên đường thi hành sứ
mạng, nên người môn đệ vẫn hằng cảm thấy niềm vui khi bị
bách hại và chịu thử thách trăm bề (x. Cl 1,24). Như Ðức
Giêsu, Ðấng hằng vâng ý Cha, lấy ý Cha làm lương thực của
mình (x. Ga 4,34), người môn đệ cũng được mọi người tín
thác vào tình thương quan phòng của Cha để luôn vâng ý Cha.
Ngắm
nhìn vũ trụ bao la, thế giới xinh đẹp, người môn đệ khắc
ghi sâu đậm nơi lòng mình tình Cha vẫn hằng ấp ủ đỡ nâng
tất cả mọi loài thọ sinh. Tuy là Ðấng có thể tiêu diệt cả
xác lẫn hồn, nhưng Cha vẫn mãi mãi là Ðấng rất mực từ
nhân. Cha hằng chăm sóc cho từng cánh hoa đồng nội, trang điểm
cho đẹp xinh hơn cả vinh hoa tột bậc của vua Salomon quí phái (x.
Mt 6,29). Cha giữ gìn từng cánh chim bé bỏng, nuôi chúng no đủ
từng ngày (x. Mt 6,26) và không con nào phải rơi xuống đất
ngoài ý Cha (Mt 10,29). Riêng đối với những môn đệ của Con
Chí Ái, những người thuộc về Cha (x. Ga 17,6), Cha ân cần săn
sóc đến nỗi biết đến từng sợi tóc trên đầu họ (x. Mt
10,30). Trong tình thương diệu vời của Cha, người môn đệ có
cùng một lòng tri ân, thán phục của tác giả thánh vịnh 138:
"Ngài
bao bọc con cả sau lẫn trước,
Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.
Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
Quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Ði
mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,
Lẫn nơi nào cho khuất Thánh Nhan?
Con
có lên trời, Chúa đang ngự đó,
Nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Dù
chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện
Ðến ở nơi chân trời góc biển phương tây,
Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn.
Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con (câu 5-9)
Chẳng giết được linh hồn
Hãy
noi gương thánh nữ tử đạo Anê Lê Thị Thành. Người phụ
nữ này bị bắt chính vì bà đã cho các thừa sai trú ẩn nơi
nhà mình. Bà đã hành xử giống như nhóm phụ nữ cùng với
Nhóm Mười Hai theo chân Ðức Giêsu và đã lấy của cải mình
mà giúp đỡ Ðức Giêsu và các môn đệ (x. Lc 8,1-3).
Tại
Nam Ðịnh, quan toà bắt bà Anê Thành chối đạo, bà đáp:
"Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo
Chúa muôn đời."
Các
quan truyền đánh đòn bà, lúc đầu bằng roi, sau bằng thanh củi
lớn quật vào chân bà. Dịp chồng bà đến thăm, bà đã giải
thích lý do tại sao bà chịu đựng nổi cơn đánh đập hung bạo
đó: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông
còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Ðức Mẹ giúp sức,
nên tôi không cảm thấy đau đớn."
Dã
man nhất là màn thả rắn độc vào trong áo bà Thành đang mặc.
Họ đã túm lấy tay áo bà, có ý để rắn bị bức xúc sẽ
cắn vào người bà. Nhưng bà Thành bình tĩnh lạ thường, không
nhúc nhích, nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò
ra.
Người
con út của bà Thành là Luxia Nụ tới thăm mẹ và thấy y phục
mẹ mình đầy vết máu, nên khóc nức nở. Bà Thành an ủi
con: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng
chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"
Bà
Thành còn nói với cô Nụ: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo
với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng
tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá đến
cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên
Ðàng."
Trong
thời gian ngồi tù, bà Thành không những chịu cực hình tra
tấn, chịu đói, chịu khát, mà còn chịu khổ vì bệnh kiết lị
hành hạ. Nhưng bà được an ủi nhiều vì có hai nữ tu cùng
bị giam, săn sóc và giúp đỡ bà. Các linh mục cũng gởi
thuốc, đến thăm và ban bí tích hoà giải, xức dầu .
Cuối
cùng bà đã phó linh hồn trong tay Chúa theo gương Thầy Chí Thánh
ngày 12 tháng 7, 1841, sau ba tháng bị giam, hưởng thọ 60 tuổi,
và được Ðức Gioan Phaolô II phong hiển thánh năm 1998.
Một
số câu hỏi gợi ý
1.
Bạn được đánh động nhất về điều gì trong cuộc tử đạo
của thánh Anê Lê Thị Thành? Bạn nghĩ thánh Anê Thành nêu gương
sáng nào cho người môn đệ Chúa Giêsu?
2. Trong thế giới công nghiệp ta hiện đang sống, bạn thấy người Kitô hữu phải hy sinh từ bỏ đặc biệt về những khía cạnh nào trong cuộc sống để theo chân Chúa Giêsu?