Ngày
17 tháng 02 năm 2002
Chúa Nhật 1 Mùa Chay Năm A
Ðọc
Tin Mừng Mt 4,1-11
1
Bấy giờ Ðức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để
chịu quỷ cám dỗ. 2 Người ăn chay ròng rã bốn mươi
đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. 3 Bấy giờ
tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên
Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!" 4
Nhưng Người đáp: "Ðã có lời chép rằng: Người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn nhờ mọi lời do miệng
Thiên Chúa phán ra."
5
Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người
trên nóc đền thờ, 6 rồi nói với Người: "Nếu
ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời
chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và
thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá."
7 Ðức Giêsu đáp: "Nhưng cũng đã có lời chép
rằng: Ngươi
chớ thử thách Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi."
8
Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người
thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các
nước ấy, 9 và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả
những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi." 10
Ðức Giêsu liền nói: "Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép
rằng: Ngươi
phải bái lạy Thiên Chúa là Ðức Chúa của ngươi, và phải
thờ phượng một mình Người mà thôi."
11
Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và kìa các sứ thần tiến
đến hầu hạ Người.
Gợi
ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Tôi
sinh ra để sống cho những gì cao quí hơn
Phong
Cát Tư Kha (Paul Kostka) và Thành Cát Tư Kha (Stanislaus Kostka) là
hai anh em ruột. Hai anh em chỉ
cách nhau một tuổi: anh sinh 1549, em 1550.
Thế là công tước Giang Cát Tư Kha (John Kostka) được bảo
đảm có con trai nối dòng. Hai
ông bà lấy nhau năm 1548. Ông
vừa là nghị sĩ, vừa là cố vấn triều đình Ba Lan.
Ở
thế kỷ 16 thời phong kiến tại Ba Lan, hễ có dòng máu quí tộc
là có quyền và có tiền, để sống sung sướng trong nhung lụa.
Thành Cát Tư Kha là em, lớn lên như bông sen "gần bùn
mà vẫn không hôi tanh mùi bùn", nên được bố mẹ gọi là
thiên thần ngay từ hồi còn nhỏ.
Giữa bầu khí phóng túng của những bữa tiệc được
tổ chức quá thường xuyên tại lâu đài Ðông Kinh (Rostkov)
của gia đình, Thành Cát Tư Kha năng tự nhủ: Tôi sinh ra để
sống cho những gì cao quí hơn. Sau
này, khi người ta đề cao dòng máu công tước của anh, phản
ứng tự nhiên của anh là ở thế gian này mọi sự đều nhỏ
bé cả.
Phải
chăng bối cảnh giầu sang của dòng họ Cát Tư Kha vẫn tháp tùng
hai anh em ruột này khi họ được gởi đi học ở Vienna?
Khi ấy anh 15 tuổi, em 14. Họ
luôn có hai người theo hầu, nhất là có bác sĩ y khoa Bùi
Linh Ký (Bilinski) trẻ trung, chăm lo cho hai anh em về giáo dục và
sức khoẻ.
Sở
dĩ hai anh em được gởi đi học ở thành phố Vienna của Áo
Quốc, là vì gia đình đặt tín nhiệm vào nền giáo dục có uy
tín của các cha Dòng Tên tại đó, nổi tiếng nhất trong vùng
là vì giám tỉnh Phêrô Khang Ninh (Peter Kanis).
Hai anh em ở nội trú tại cơ sở Dòng Tên được 8 tháng
thì cơ sở ấy bị nhà vua mới lên ngôi đòi lại, nên hai
anh em cùng với đoàn người tùy tùng sang trọ ở nhà một
nghị sĩ Tin Lành chống Công Giáo ra mặt, tên là Kimberker.
Chính
nơi nhà trọ này sự khác biệt giữa hai anh em trở nên rõ
nét và căng thẳng. Em tiếp
tục sống nếp sống đạo đức như 8 tháng trước: dự thánh
lễ mỗi ngày, chịu lễ mỗi tuần, tập khiêu vũ tối thiểu
theo thói quen của bậc công tử, chẳng ưa nhậu nhẹt, ngược
lại tìm thì giờ và nơi thanh vắng để cầu nguyện.
Còn anh là Phong Cát Tư Kha cùng với các bạn quí tộc,
chủ trương sống như ai về ăn mặc, khiêu vũ, tiệc tùng, đi
coi hát. Thế là từ từ em trở nên đối tượng của lườm
nguýt, chê bai, nhạo cười, đối với anh ruột và chúng bạn.
Không đạt được mục tiêu là chinh phục em, Phong Cát Tư
Kha sau trở nên tàn nhẫn đối với em. Nhưng Chúa an bài đã
biến sự tàn nhẫn đó trở nên cơ hội để em gia nhập Dòng
Chúa Giêsu, đó là điều em hằng ước ao từ lâu rồi.
Số
là hôm đó, Phong Cát Tư Kha tức giận đến nỗi quát mắng
em: Mày cút đi đâu thì cút cho rảnh mắt tao! Thế là sáng sớm
ngày 17 tháng 8, 1567, em đi dự thánh lễ như bình thường. Sau
đó thay vì đi dự lớp học, Thành Cát Tư Kha đã cải trang
như cậu bé thôn quê và lên đường cuốc bộ theo một cuộc
hành trình dài: 650 cây số từ
Vienna đến Hoàng Bưng (Augsburg); 40 cây số nữa từ Hoàng Bưng
đến Ðinh Giang (Dilligen) nơi Thành Cát Tư Kha được cha giám tỉnh
Khang Ninh (Phêrô Kanis) nhận làm ứng sinh Dòng Tên; kế đó,
anh còn phải đi bộ 1,200 cây số nữa để được an toàn nhận
vào tập viện thánh Anrê tại Rôma: đó là ngày 28 tháng 10,
1567.
Ở
thế gian này mọi sự đều bé nhỏ
Trước
khi trốn khỏi nhà trọ, Thành Cát Tư Kha đã ngồi viết thư
cho bố và người anh ruột của mình những lời tâm huyết sau
đây:
Kính
thưa bố và anh Phong (Phaolô)
Ðứa
con của bố và em của anh Phong, thực sự chỉ có một ý hướng
duy nhất để lẻn đi, đó là rút lui khỏi thế gian hầu đáp
lại tiếng Chúa đã gọi và đã ra lệnh cho con vào Dòng Chúa
Giêsu. Con thực không có một ý hướng nào khác ngoài ý hướng
đó.
Nếu
bố và anh thực tình thương con thì xin đừng lên án con. Con
dám chắc một ngày nào đó bố và anh sẽ sung sướng về cuộc
ra đi của con được thành sự.
Khi
những dòng chữ trên đây tới tay ông nghị sĩ và cố vấn
triều đình Giang Cát Tư Kha tại Ba Lan, ông liền nổi cơn thịnh
nộ. Thư ông viết đáp lại, đến tay cha giám tập, được tóm
lại trong ba điểm quyết liệt như sau:
"Thứ
nhất, ông nặng lời quở trách con đã làm ô danh gia đình
Cát Tư Kha, vì đã ăn vận như người đi ăn xin trên đường
đi Ðức Quốc và Italia.
Thứ
hai, ông đe dọa sẽ sai người đi tóm cổ con ông giong về Ba
Lan, nơi con ông sẽ bị xiềng xích chân tay và ngồi tù suốt
đời, không còn được gặp gỡ bạn bè và mẹ cha.
Thứ
ba, tốt nhất con ông nên làm điều khôn ngoan là trở về với
gia đình ngay; nếu không, sẽ bị bắt giải về Ba Lan bằng vũ lực."
Quả
thật, ông Giang Cát Tư Kha đã thực hiện đúng lời ông nói
trong thư, là sai con cả đi lôi cổ con thứ về Ba Lan. Vậy cuối
tháng 8, Phong Cát Tư Kha xuất hiện tại Roma với đầy đủ võ
trang và quyền lực để Dòng Tên ở đây phải lo sợ.
Phái đoàn do công tử Phong Cát Tư Kha dẫn đầu dừng
lại trước cửa tập viện thánh Anrê của Dòng Tên với lời
yêu cầu: Tôi là anh của Thành Cát Tư Kha, yêu cầu thầy hãy
dẫn em tôi ra đây ngay lập tức!
Thầy
gác cổng lễ phép mời quí khách vào phòng khách để thầy
mời cha giám tập ra tiếp. Cha Giuliô Phan Dương (Frazio) lịch sự
nói với công tử trưởng phái đoàn rằng:
"Thưa
ngài, người em ruột của ngài là Thành Cát Tư Kha qua đời
nay đã được bốn tuần." Thế là ông anh được được
đưa ra thăm mộ em mình. Chính khi quì trước nấm mộ của em,
Phong Cát Tư Kha nghiệm được ơn biến đổi lạ thường. Anh
khóc sướt mướt như một đứa trẻ, trước sự chứng kiến
của cha Phan Dương giám tập.
Lạ
hơn nữa là những điều xảy ra sau đó. Từ ngày đó cho tới
khi chết, Phong Cát Tư Kha sống một đời gương mẫu khác hẳn
xưa. Chính anh kể lại những điều anh nghe được về danh thơm
tiếng tốt em anh đã để lại tại Roma, khiến bố anh cũng ra mềm
lòng. Ít lâu sau đó, ông nghị sĩ Giang Cát Tư Kha qua đời cùng
với người con thứ ba tắt thởù sau ông một tuần.
Phong
Cát Tư Kha một mình ở với mẹ tại lâu đài Ðông Kinh của
gia đình. Khi bà qua đời ông sống đời cô tịch trong cầu
nguyện và hy sinh hãm mình dâng cúng tài sản cho các việc
thiện. Tới tuổi 56, ông xin vào Dòng Tên "không vì công
nghiệp riêng bản thân nhưng vì là anh ruột của Thành Cát Tư
Kha." Lời thỉnh cầu của ông đã được chấp thuận. Nhưng
thời gian ông về nhà sắp xếp mọi việc để vào Dòng Tên,
ông đã qua đời ngày 13 tháng 11, 1607. Ðó chính là ngày Dòng
Tên nhận làm ngày kính thánh Thành Cát Tư Kha để ghi nhớ
cuộc trở lại của anh nhờ gương sáng của em đã được
phong chân phước năm 1604 và sau này được tôn phong hiển
thánh năm 1726.
Lời
Chúa là ngọn đèn soi cho con bước
Có
thể nói suốt mười tám năm tuổi đời, cậu thanh niên Thành
Cát Tư Kha luôn phải vật lộn với khó khăn thử thách để
thực sự là mình, vượt khỏi tầm nhìn của gia đình, vượt
khỏi những ràng buộc của xã hội quí tộc, nhắm tới những
điều cao quí hơn. Không riêng Thành Cát Tư Kha, mọi Kitô hữu
đều được mọi gọi tham gia cuộc chiến chống lại mọi cám
dỗ và thử thách dưới sự lãnh đạo của Ðức Giêsu (Mt
4,1-11)
Những
thử thách Ðức Giêsu đã vượt thắng cho thấy Ngài là ai
dưới danh xưng Ðấng Ðược Xức Dầu Tấn Phong và là con
Thiên Chúa. Bối cảnh là sa mạc và thời gian chịu thử thách
gợi nhớ Ít-ra-en trong 40 năm nơi sa mạc. Nơi sa mạc, dân Ít-ra-en
đã chịu thử thách và đã sa ngã vì yếu đuối; nay Ðức
Giêsu chịu thử thách và đã toàn thắng. Sau 40 ngày chay tịnh,
Ngài cảm thấy đói. Ðó là lúc quỉ cám dỗ Ngài dùng phù
phép để biến đá thành bánh mà ăn. Ngài liền trưng Lời
Thiên Chúa cho biết loài người cần được nuôi sống bằng
Lời Thiên Chúa (c 4) chứ không chỉ bằng cơm bánh mà thôi.
Khi quỉ đưa Ðức Giêsu lên đỉnh cao của tường lũy Ðền Thờ,
rồi cám dỗ Ngài nhảy xuống vì đã có Thiên Chúa đỡ nâng;
Ngài trích Lời Thiên Chúa (c 7) để thắng kẻ cám dỗ. Quỉ còn
đặt Ðức Giêsu trước bả vinh hoa phú quý và cám dỗ Ngài
bái lạy hắn để hưởng thụ. Nhưng Ngài cũng trích Lời Thiên
Chúa đòi người ta phải bái lạy một mình Thiên Chúa mà
thôi (c 10)
Một
số câu hỏi gợi ý
1.
Bạn tâm đắc được gì về gương thánh trẻ Thành Cát Tư
Kha nói: Tôi được sinh ra để sống cho những gì cao quí hơn?
Trên đời này mọi sự đều bé mọn?
2. Bạn hiểu thế nào về Lời Chúa dạy: Loài người cần được nuôi sống bằng Lời Thiên Chúa, chứ không chỉ bằng cơm bánh mà thôi? Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa? Cần phải tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi?