Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người. Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩa của nhiều tâm hồn phải bày ra.
Và có nữ tiên tri tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi tộc Ase. Bà đã cao niên lắm. Mãn thời xử nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, và đã ở goá nay là tám mươi bốn năm. Bà không rời khỏi Ðền Thánh, thờ Chúa đêm ngày trong chay kiêng và cầu nguyện. Vào giờ ấy, bà đã đến bên tán tạ Thiên Chúa, và bà đã nói về Ngài cho mọi kẻ ngóng đợi phúc cứu chuộc của Giêrusalem.
Khi đã xong mọi
sự theo Luật Chúa, ông bà trở
về Galilê, đến Nadarét, thành
của ông bà. Còn Hài Nhi thì
lớn dần và nên dũng mãnh,
tràn đầy khôn ngoan, và ân
sủng Thiên Chúa đậu trên Ngài."
Ðoạn Tin Mừng này đã cho chúng ta thấy Con Thiên Chúa đã sống mầu nhiệm nhập thể như thế nào. Khi chấp nhận làm người Do Thái, Ngôi Lời đã chấp nhận những luật lệ của Do Thái Giáo. Ngài đã chịu cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh, và Ngài cũng được đặt tên trong cùng ngày. Như thế Con Thiên Chúa đã thành người Do Thái. Ngài cũng có một tên như mọi người, tên Ngài là Giêsu. Ngoài ra, vì Ðức Giêsu là con đầu lòng nên Ngài thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2). Cha mẹ Ngài phải chuộc con bằng cách nộp cho tư tế một số bạc (Ds 3,47-48). Ở đây thánh Luca không nói đến chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến chuyện dâng Hài Nhi cho Chúa. Thực ra dâng con không phải là điều mà luật Môsê bó buộc phải làm, nhưng là do lòng sốt sắng. Sa-mu-en ngày xưa cũng được dâng như vậy (1S 1,22).
Chúng ta nhìn ngắm Ðức Maria lên Ðền Thờ để dâng lễ vật. Theo sách Lêvi 12,2-8, người phụ nữ sinh con trai bị coi là nhơ trong 40 ngày, còn sinh con gái thì bị nhơ 80 ngày. Trong thời gian đó, bà phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Ðền Thờ. Sau thời gian đã định trên, bà phải đem đến cho tư tế Ðền Thờ một con chiên một tuổi để làm lễ toàn thiêu và một con chim gáy hay một bồ câu non để làm lễ tạ tội. Nếu bà không đủ tiền mua chiên thì phải dâng một cặp bồ câu non hay là một đôi chim gáy. Ðức Maria đã dâng lễ vật của người nghèo (c.24).
Ngày nay chúng ta có thể thấy những luật trên đây là khó hiểu, thậm chí khó chấp nhận. Nhưng Con Thiên Chúa đã đón lấy tất cả chỉ vì Ngài muốn là người và là người Do Thái. Ngài được cắt bì như dấu chỉ kết ước với Gia-vê, dù Ngài vẫn luôn là một với Gia-vê. Ngài được dâng cho Thiên Chúa dù Ngài đã thuộc trọn về Thiên Chúa. Thánh Luca muốn cho chúng ta thấy thánh Giuse và Mẹ Maria là những ngườ giữ Luật Chúa một cách nghiêm túc vì lòng nhiệt thành và yêu mến. Bốn lần Luca nói đến Luật, Luật Chúa hay Luật Môsê (cc.22.23.24và 27). Luật biểu lộ ý muốn của Thiên Chúa và chi phối đời sống người tín hữu Do Thái. Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Ðức Maria, Ðấng mà chúng ta tuyên xưng là người sinh hạ Con Thiên Chúa, lại chịu thanh tẩy khi sinh con như những người phụ nữ khác.
Cần phải có Thánh Thần mới nhận ra mầu nhiệm lớn lao đang toả sáng nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của một đôi vợ chồng nghèo. Si-mê-on là người có Thánh Thần ở trên, ông được thúc đẩy lên Ðền Thờ để gặp Ðấng mà ông suốt đời ngóng đợi (cc.25-27). Nhờ Thánh Thần soi sáng, ông nhận ra Hài Nhi nghèo hèn chính là Ðức Kitô. Ông bồng Ngài trong vòng tay, môi bật lên lời chúc tụng. Ông hạnh phúc và mãn nguyện vì đã được thấy Ðấng là ơn cứu chuộc cho muôn dân, là ánh sáng cho dân ngoại, là vinh quang cho dân tộc Ít-ra-en (cc.29-32). Ðể nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày cũng cần có một đời sống đạo đức, gắn bó với Chúa và không để mình bị mê hoặc bởi tạo vật. Ông Si-mê-on là người công chính và mộ đạo. Còn bà nữ tiên tri Anna là một goá phụ, đã phụng thờ Chúa đêm ngày trong chay tịnh và cầu nguyện. Cuộc gặp gỡ Chúa tưởng như tình cờ, nhưng có thể đó là kết quả của một sự chờ đợi và chuẩn bị dài lâu.
Gia Ðình Của Ngôi Lời Làm Người
Khi làm người, Ngôi Lời đã sống trong một gia đình, có mẹ, có cha. Tuy thánh Giuse và Ðức Maria không có tương quan xác thịt vợ chồng, nhưng tình yêu lại không bao giờ thiếu dưới mái nhà Na-da-rét. Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia, nhưng trong các Tin Mừng thời thơ ấu theo thánh Mát-thêu và Lu-ca, chúng ta luôn luôn thấy Hai Ðấng ở bên nhau trong mọi biến cố vui buồn. Chính thánh Giuse đã đưa Ðức Maria đi Bêlem để đăng ký. Ðoạn đường không phải là ngắn và dễ dàng đối với một phụ nữ đã gần ngày sinh nở. Chắc chắn cả hai đã phải bối rối và lo âu khi không tìm được một quán trọ ấm áp cho Hài Nhi chào đời. Thánh Giuse cũng cùng đi với Ðức Maria lên Ðền Thờ như trong đoạn Tin Mừng trên đây. Chúng ta cũng không quên việc thánh Giuse hộ tống Hài Nhi và Ðức Mẹ trốn sang Aicập, sau đó lại đưa về Na-da-rét sinh sống ở đó. Một kỷ niệm khó quên là lần Ðức Giêsu ở lại Ðền Thờ khi Ngài 12 tuổi. Những ngày dài tìm kiếm trong lo âu và nước mắt của hai ông bà, và cả niềm vui khi gặp lại được con. Cuộc sống của Thánh Gia không phải là luôn luôn phẳng lặng, cũng có lúc tưởng chừng như có thể tan vỡ (Mt 1,18-19). Chúng ta thường nghĩ một người sống trọn vẹn cho Chúa thế nào cũng được hưởng một cuộc đời êm ả và tràn đầy may mắn. Xét theo cái nhìn của người đời thì Mẹ Maria đã gặp những khổ đau và bất hạnh. Bất hạnh lớn nhất là phải chứng kiến Con mình bị treo trên thập giá giữa tuổi đời dang dở. Cuộc sống không sao tránh khỏi những hy sinh và mất mát, những bực bội và lo âu. Ðiều quan trọng là nắm lấy tay Chúa và cầm lấy tay nhau để có nghị lực mà vượt qua trong bình an thanh thản.
Chúng ta không rõ công việc hàng ngày của Ðức Maria. Chắc Mẹ đã lo việc may vá, bếp núc và đội nước từ giếng về nhà. Một việc khác quan trọng hơn của Mẹ là cầu nguyện. Mẹ thấy mình đang sống bên một Mầu Nhiệm và chính đời hôn nhân của Mẹ cũng là một mầu nhiệm. Chính vì thế, Mẹ đắm mình trong cầu nguyện, các biến cố trở nên lời nói kín đáo của Thiên Chúa mà Mẹ thích "giữ kỹ và hằng suy niêm trong lòng" (Lc 2,50). Ðời sống thiêng liêng của Mẹ là không ngừng tìm hiểu về Ðức Giêsu và chấp nhận để cho Con ra đi hiến thân phụng sự Thiên Chúa.
Thánh Giuse là người đứng mũi chịu sào cho cuộc sống của cả gia đình. Nói đến cuộc sống là nói đến cái ăn, cái mặc, và những nhu cầu thúc bách khác. Thời nào cũng có những khó khăn riêng. Ông thợ mộc Giuse phải vất vả để lo sao cho gia đình mình sống được. Lao động nghiêm túc để phục vụ cho gia đình: đó là con đường nên thánh của Giuse.
Bầu khí của tổ
ấm ở Na-da-rét là bầu khí
yêu thương, cầu nguyện và cần
cù lao động. Ðức Giêsu
đã lớn lên về mọi mặt
nhờ bầu khí này. Ðộng
từ lớn lên cho ta thấy Con Thiên
Chúa đã muốn đồng hành
với con người. Ngài không
phải là một thần đồng, cũng
không phải là một Phủ Ðổng
Thiên Vương. Ngài lớn lên
từ từ trong thời gian, thời
gian là ánh mặt trời làm trái
xanh được chín. Không hấp
tấp hối hả, nhưng cũng không
dậm chân tại chỗ. Hôm nay của
Ngài vẫn liên tục với hôm
qua, nhưng lại vượt hôm qua. Có
những điều phải bỏ lại
để đón nhận những điều
mới. Hài Nhi Giêsu đã đi
một chặng đường hơn 30 năm
để trở thành một ông Giêsu
trưởng thành và chính chắn,
sẵn sàng đón nhận sứ mạng.
Cường tráng, khôn ngoan và đầy
tràn ân sủng: đó là sự
triển nở hài hoà của Ðức
Giêsu. Chúng ta cám ơn Ðức
Mẹ và thánh Giuse đã cho thế
giới một Ðức Giêsu biết
yêu thương, biết say mê cầu nguyện
và lao động không mệt mỏi cho
hạnh phúc của nhân loại và Nước
Cha.
2. Ðể có một
xã hội lành mạnh và một Giáo
Hội thánh thiện, cần có những
gia đình sống theo mẫu của Thánh
Gia. Theo ý bạn, cần làm gì để
xây dựng một gia đình yêu
thương, lao động và cầu nguyện?