Nghe vậy, mười
môn đệ kia đâm ra tức tối
với ông Giacôbê và ông
Gioan. Ðức Giêsu gọi các ông
lại và nói: "Anh em biết: những
người được coi là thủ
lãnh các dân thì áp đặt
trên họ quyền bá chủ, những
người làm lớn thì áp
đặt trên họ quyền hành của
mình. Nhưng giữa anh em thì không
phải như vậy: ai muốn làm lớn
giữa anh em thì phải làm người
phục vụ anh em; ai muốn làm đầu
anh em thì phải làm đầy tớ
mọi người. Vì Con Người
đến không phải để được
người ta phục vụ, nhưng là
để phục vụ, và hiến dâng
mạng sống làm giá chuộc muôn
người".
Một cậu bé nhà nghèo bị bố bỏ rơi, 4 tuổi đã phải đi ăn xin. Xong tiểu học ở tuổi 13, Giuse Lê Ðình Kỷ (Joseph Wresinski) học được nghề làm bánh ngọt để sống tới tuổi 19. Qua trung gian phong trào Thanh Sinh Công, cậu được hướng dẫn theo ơn gọi linh mục.
Năm 1937 cậu nhập ngũ theo tuổi quân dịch. Hai năm sau, chiến tranh bùng nổ ở Pháp, cậu bị bắt làm tù binh nhưng trốn được và về học ở chủng viện Sinh Ðông (Soissons), nơi Thầy Giuse thụ phong linh mục năm 1946. Kế đó là 4 năm làm cha phó và 6 năm làm cha sở.
Năm 1956 Cha Kỷ được giao nhiệm vụ mở ra một giai đoạn hoàn toàn mới không riêng cho cha. Cha ghi lại như sau:
Ðức Giám Mục đã phái tôi đến trại tiếp cư khẩn cấp vùng ngoại ô Noisy-le-Grand của Thủ đô Paris. Ngày đầu tôi tới đó là 14 tháng 7, 1956. Tôi được gặp những gia đình gợi nhớ tình cảnh túng quẫn của mẹ tôi. Trẻ con tới tấp tới quấy phá tôi, tôi kể đó là những người em trong gia đình tôi.
Ðó là hình ảnh của chính tôi, bốn mươi năm trước đây trên đường Gia-cô-bê của thành phố Aùnh Dương (Angers). Từ ngày tôi đặt chân tới trại, chính những gia đình ấy đã khởi hứng cho tôi về tất cả những gì tôi thực hiện nhằm giải phóng họ. Họ ôm chầm lấy tôi, ám ảnh tôi, thúc bách tôi, đưa đẩy tôi cùng với họ thiết lập một phong trào. Chính họ rèn luyện nên căn tính riêng và tự xưng là "Thế giới thứ Bốn".
Ðể cha hiến thân phục vụ người nghèo
Tại sao gọi là "Thế giới thứ Bốn" ? Cha Kỷ muốn người ta nhìn nhận phẩm giá của những gia đình đó. Ngài muốn nói lên thái độ của họ muốn từ khước túng quẫn. Chính vì muốn chấm dứt cảnh túng quẫn của họ nên Cha Kỷ đã khởi xướng kế hoạch phát triển cộng đồng cùng với họ. Cùng với những gia đình đó, cha Kỷ đã thiết lập phong trào Trợ Giúp người lâm bất cứ cảnh túng quẫn nào (Aide à Toute Détress (ATD), tức International Movement ATD Fourth World).
Nhật ký của Cha Kỷ ghi tiếp:
"Ngày đó, tôi nguyền làm cho thế giới biết đến những gia đình đó. Tôi đoan thề sẽ tìm cho họ nơi ở xứng đáng, thanh niên có việc làm, người trẻ được dạy nghề, trẻ con có trường để học hành. Hôm đó tôi chọn cho tôi con đường nhắm tới mục tiêu là làm cho người nghèo có chỗ đứng và chỗ đứng ấy được thế giới nhìn nhận và tôn trọng. Tôi sẽ phải làm thế nào để họ có cơ hội trèo lên những bậc thang của Liên Hiệp Quốc, của cơ quan Giáo Dục UNESCO, của Tổ Chức Lao Ðộng thế giới (ILO), của Hội Ðồng các nước Aâu Châu và của Vatican, để tiếng nói của họ được nghe thấy.
Năm 1961 Cha Kỷ thiết lập Viện nghiên cứu đầu tiên để nghiên cứu về cảnh cùng cực (Research Institute on extreme poverty), lôi cuốn các chuyên gia đến từ các nước và các ngành khoa học. Qua những chuyến công du và những bài thuyết trình, nhiều dự án nghiên cứu của phong trào lan rộng đến nhiều nước Aâu Châu và Hoa Kỳ.
Ðược thúc đẩy do thâm tín rằng túng quẫn phải được chấm dứt khỏi đời sống con người, những người thiện nguyện đầu tiên đến cộng tác với cha Kỷ từ năm 1960. Họ đến từ nước, thuộc nhiều quốc tịch, nhiều tín ngưỡng và nghề nghiệp. Một số có gia đình, một số độc thân. Con số những thành viên chí nguyện này hiện là 350 tại 20 quốc gia, trong số đó 200 người đã phụcvụ trên 5 năm và 35 người đã phục vụ trên 20 năm. Họ sống trong những cộng đoàn nơi họ phục vụ bằng cách cổ võ giao lưu giữa những gia đình nghèo và dân chúng nói chung.
Cuộc viếng Ấn Ðộ năm 1965 khiến Cha Kỷ có thêm phong trào Tapori, trong đó các em thiếu nhi từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội trở nên bạn thân với nhau. Song song nữa là phong trào thanh niên cũng nhằm mục tiêu là gây tình bạn vượt mọi rào cản.
Hai biến cố đánh dấu năm 1987 là năm chót đời cha Kỷ. Năm ấy cha đệ lên Hội Ðồng Kinh Tế và Xã Hội của Pháp Quốc một đề nghị tổng hợp nhằm diệt tận căn bệnh nghèo trường kỳ. Tài liệu của cha Kỷ nhan đề là "nghèo cùng cực và sự bấp bênh Kinh Tế và Xã Hội" khiến chó nước Pháp đã làm luật để bảo đảm đồng lương tối thiểu. Ðiều này đã gây hứng khởi cho những nước khác của Aâu Châu và lôi kéo sự chú ý trên toàn cầu.
Cũng năm ấy, vào ngày 17 tháng 10, trước sự có mặt của trên 100,000 người từ khắp nơi trên thế giớ, cha Kỷ đã đặt viên đá kỷ niệm nhằm tán dương những khổ đau và lòng can đảm của người nghèo. Viên đá kỷ niệm được đặt tại Công Trường Các Quyền Con Người tại Paris, đối diện tháp Eiffel. Bảng viết ghi rõ: "Bất cứ khi nào người nam hay nữ phải sống trong nghèo khổ thì quyền làm người của họ bị chà đạp (condemned). Ta có bổn phận cùng nhau bảo đảm cho những quyền đó được tôn trọng."
Trong lễ an táng cha Kỷ tại nhà thờ chính toà Paris, Ðức Hồng Y Lustiger nói: "Thiên Chúa đã gọi cha Giuse Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó để cha hiến thân trở nên sức hút nhằm loại bỏ tận căn tệ nạn người loại bỏ người. Ðiều dễ phát sinh ra căm hờn đã trở nên dấu chỉ của tình thương. Ðiều dễ phát sinh ra tàn phá đã mở lối vào để con người được triển nở, được nhận ra mình và khám phá ra phẩm giá của mình.
Lý tưởng cao đẹp nhất của người môn đệ Chúa Giêsu
Câu chuyện Cha Kỷ hiến thân phục vụ người nghèo được kể để giúp lãnh hội ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay. Ý nghĩa ấy quả thật ngược lại với xu hướng tự nhiên của Nhóm Mười Hai. Khởi sự là hai anh em trong nhóm, tức Giacôbê và Gioan, đã xin để được ngồi bên hữu bên tả Ðức Giêsu khi người thiết lập Vương quốc, nhưng Người đã giao cho hai ông vác thập giá theo Người. Lời hai anh em này yêu cầu cũng dễ hiểu vì cả nhóm đã từng: "cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả" (Mc 9,34). Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy chính bà mẹ của hai ông nói lên lời thỉnh cầu của gia đình (Mt 20,20). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng với lời thách đố: "các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" (Mc 10,38). Ðức Giêsu có ý nói tới cơn hấp hối và cái chết mà Người sẽ chịu. Hai anh em được thách đố để theo Ðức Giêsu đến cùng. Ðức Giêsu kết thúc đối thoại bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: "Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu." Nghĩa là hai anh em phải bước theo Ðức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Không riêng hai anh em là Giacôbê và Gioan, mười người còn lại trong nhóm Mười Hai, đều bị chỉnh khi họ tỏ ra tức tối với hai anh em liên quan tới việc tranh giành ảnh hưởng giữa nhau. Ðể bước theo Ðức Giêsu cần phải dứt khoát loại bỏ thái độ "hống hách đối với người khác" (c.42). Là Kitô hữu có nghĩa là trở nên kẻ phục vụ tha nhân như Ðức Giêsu đã phục vụ (c.45). Ai ở địa vị cao nhất và uy thế nhất, người đó nhận lấy trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của mọi người theo gương Ðức Giêsu (c.44). Ðó là con đường đưa người môn đệ vào vinh quang của Ðức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay liên quan trước hết tới hai môn đệ thân cận nhất của Ðức Giêsu là ông Giacôbê và Gioan (cùng với Simon-Phêrô, hai ông này được Ðức Giêsu chọn để tháp tùng Ngài lên núi biến hình (9,2-9) và có mặt trong cơn hấp hối tại Vườn Dầu (14,32-42)). Sứ điệp mà Tin Mừng Máccô có ý truyền đạt liên quan tới địa vị lãnh đạo trong Giáo Hội, họ phải là người đầu tiên "uống chén đắng" bằng cách phục vụ nhu cầu của anh chị em, bất cứ là nhu cầu nào họ nhận thấy và bất cứ trong hoàn cảnh nào họ nhận ra. Ðó quả là một đòi hỏi tận căn, hầu như không bao giờ người được giao trách nhiệm cảm thấy mình đã chu toàn được nhiệm vụ.
Nơi Cha Kỷ, ý nghĩa
của bài Tin Mừng hôm nay được
sáng tỏ. Thiên Chúa đã an
bài để Cha sinh ra trong khó nghèo
hầu cả đời hiến thân
phục vụ người nghèo. Cha không
căm hờn người giàu nhưng
đòi họ bằng mọi giá phải
hoán cải bản thân. Bằng mọi
giá họ phải trả lại cho người
nghèo quyền lợi và phẩm giá
thuộc về họ. Lý tưởng cao
đẹp nhất được nêu cho
người môn đệ Ðức
Giêsu là họ phải cúi mình phục
vụ người nghèo theo gương chính
Ðức Giêsu.
2. Chính Chúa Giêsu
đã thể hiện điều Người
dạy các môn đệ trong bài Tin
Mừng hôm nay như thế nào?