Rồi Ðức Giêsu nói tiếp: "Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng". Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
"Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy". Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
"Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm chồm anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giời người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa..." Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy". Và họ bắt đầu ăn mừng.
"Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khoẻ". Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: "Cha ơi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!"
"Nhưng người
cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào
con cũng ở với cha, tất cả
những gì của cha đều là
của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng
và hoan hỷ, vì em con đây đã
chết, nay lại sống, đã mất,
nay lại tìm thấy".
Ngày 25 tháng 2 năm 1954 xảy ra một vụ cướp ngân hàng tại thủ đô Paris của nước Pháp. Một chàng trai tên Phan Ðăng Lê (Jacques Flesh) dùng súng trước hết bắn trọng thương một nhân viên ngân hàng, sau đó bắn chết một nhân viên cảnh sát, đồng thời làm một số người qua đường bị thương. May mà nhân viên công lực đã sớm tóm cổ được hắn.
Tại phiên toà, phạm nhân không hề hối hận về tội đã phạm mà còn ngạo nghễ muốn khiêu khích mọi người có mặt. Ban đầu đã có người nghi hắn mắc bệnh tâm thần. Nhưng trắc nghiệm tâm lý cho thấy tên Phan Ðăng Lê này chỉ là một đứa con được cưng chiều quá hoá ra mất dạy, chỉ biết ăn chơi đàng điếm. Hắn trơ trẽn và bình thản chấp nhận án tử một cách vô liêm sỉ. Khi bị lên án tử hình, hắn lớn tiếng nói với mình rằng: "Cho mày đáng đời! Mày phải bước lên máy chém thì hãy tỏ ra là một con người can đảm!"
Quả thật Phan Ðăng Lê là con một ông chủ ngân hàng giầu sụ nước Bỉ. Cho tới tuổi 24, cậu muốn gì được nấy, không hề thiếu thốn sự gì. Cậu đã phung phí tuổi xuân xanh trong ăn chơi, lười biếng và ương ngạnh. Học trường nào cũng chỉ được vài ngày hoặc một tuần là bị đuổi. Cậu con nhà giàu này quả thật đã trở nên kẻ vô dụng và cuối cùng trở nên kẻ sát nhân.
Ðầu năm 1954 chàng nổi hứng đòi bố mẹ cho tiền để mua một chiếc thuyền buồm hiệu Phi-li-mốt-ka dài 10m, trị giá tới 2 triệu quan Pháp. Chính vì bị bố mẹ từ chối mà chàng đã vác súng đi cướp ngân hàng và bị sa lưới pháp luật.
Gặp Ðược Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa
Nhưng chuyện chàng thanh niên con nhà giàu Phan Ðăng Lê được đề cập trong tờ chia sẻ tuần này không phải vì trở nên kẻ sát nhân cho bằng nhờ ơn Chúa đã trở nên hối nhân. Số là trong ba năm ngồi tù đợi ngày lên máy chém, anh đã say mê đọc Kinh Thánh và đã gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trong mỗi lá thư Phan Ðăng Lê viết về cho người vợ trẻ, người ta đều đọc được bề sâu của một tâm hồn đã được đổi mới nhờ gặp gỡ Thiên Chúa. Chàng ý thức rất rõ về tình trạng tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa và xã hội nên rất sung sướng đón nhận cuộc đổi mới đang diễn ra nơi con người chàng. Do đó ba năm chờ chết nơi nhà tù chính là ba năm tràn đầy niềm vui và ơn bình an đối với chàng.
Trong một lá thư viết cho người vợ trẻ, chàng tâm sự: "Em à, trước kia anh chỉ là một cái xác động đậy mà thôi, nay anh thâm tín rằng đây là lần đầu tiên trong đời, anh thực sự sống."
Ánh Sáng Trên Ðoạn Ðầu Ðài
Các thư mà Phan Ðăng Lê viết cho vợ được in thành sách dưới nhan đề: "Ánh Sáng Trên Ðoạn Ðầu Ðài". Một ngày trước khi bước lên máy chém, Phan Ðăng Lê viết trong thư vĩnh biệt vợ như sau: "Cuộc hành quyết sẽ xảy ra vào ngày mai, lúc 4 giờ sáng. Xin cho ý Chúa được trọn vẹn! Em yêu, trong 5 tiếng đồng hồ nữa anh sẽ được gặp gỡ Chúa Giêsu."
Ngày 2 tháng 10 năm 1957, sau khi chịu Mình Thánh Chúa từ tay linh mục tuyên úy nhà tù, Phan Ðăng Lê đã hiên ngang bước đi trong hành lang đưa anh tới máy chém. Năm đó anh vừa tròn 27 tuổi. Bước đường nào đã đưa anh từ con người sát nhân ngang tàng nên hối nhân thánh thiện? Cuộc đời của anh nơi nhà tù đã làm chấn động giới luật sư, trí thức và tôn giáo. Theo nhật báo Rạng Ðông của Paris, ngay đội lính canh trước đoạn đầu đài sáng thứ năm hôm đó cũng cho biết: họ chưa từng thấy một tội nhân nào bước lên máy chém với lòng dũng cảm can trường như Phan Ðăng Lê.
Ðiều hết sức đặc biệt là chính Ðức Hồng Y Lustiger, tổng giám mục Paris đã cho lập hồ sơ và ký đơn xin phong chân phước cho anh Phan Ðăng Lê. Quả thật, nếu mọi sự xuôi chảy anh có thể trở nên "người trộm lành hiện đại" làm cho ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay trở nên sống động đối với người thời nay.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay vẫn còn đó như là một thách đố lớn cho mọi người thuộc mọi thời đại, bởi lẽ ai là người cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, không riêng gì những con người ngang tàng như anh Phan Ðăng Lê.
Tình Thương Của Người Cha Ðối Với Cả Hai Con
Các nhà bình giải Kinh Thánh đều cho thấy ý chính mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới là tình thương của người cha đối với cả hai người con, tuy tình thương ấy nổi bật đối với người con thứ. Theo luật Do Thái (Ðnl 21,17), gia tài của người bố chia làm ba thì con cả được hưởng hai phần, con thứ được hưởng một phần.
Bình thường gia tài chỉ được phân phát cho con cái sau khi người bố đã qua đời. Luật pháp còn dự trù hình phạt dành cho kẻ rút phần gia tài của mình ra trước thời gian qui định. Dù sao đứa con thứ trong dụ ngôn đã rút hết phần gia tài thuộc về nó. Ðiều đó cho thấy nó thực sự đã cắt đứt mọi ràng buộc với gia đình. Việc nó rút đi một phần ba gia sản tất nhiên ảnh hưởng tới toàn bộ lợi tức của gia đình và trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của người anh cả; ta có thể hiểu phần nào về lý do tại sao người anh cả không chịu làm hòa với em: đứa em này trở về nhà rồi, nhưng việc phá hoại của nó cứ còn tiếp tục khiến người anh cả bị thiệt thòi!
Dụ ngôn người cha nhân hậu đã trở nên câu chuyện quá quen thuộc với các Kitô hữu chúng ta nên ai cũng có thể sử dụng trí tưởng tượng để khai thác những điều mình lấy làm tâm đắc, nhất là về bước đường suy sụp của người con thứ. Cái cảnh phung phá tiền của, bất kể tới mồ hôi nước mắt của người bố và tiếng tốt của gia đình, điều đó chẳng ai mà chấp nhận. Nhưng với người Do Thái điều ghê tởm hơn cả là cái cảnh đứa con thứ phải đi chăn heo. Chỉ có "quân ngoại đạo" mới làm công việc đáng khinh bỉ đó. Hơn nữa, nó ước ao được ăn thứ đồ heo ăn mà cũng chẳng có mà ăn. Như vậy người con thứ không những bị suy sụp mà còn xuống cấp vì trở nên hèn hạ hơn loài heo là con vật mà ai là người Do Thái cũng ghê tởm!
Chính trong cảnh túng quẫn đó, người con thứ nhớ lại bầu khí êm ấm của gia đình mình. Nó ước ao trở về nhà như người làm công mà thôi. Nhưng cha nó đã đối xử một cách vượt ngoài điều nó có thể tưởng tượng. Chính cha nó đã chạy tới ôm hôn nó khi nó trở về. Người cha nào có để ý gì đến lời xưng thú của nó. Ông chỉ quan tâm tới việc hồi phục lại toàn bộ những đồ ông dành cho người con kể như đã mất mà nay tìm được, đã chết mà nay sống lại!
Muốn Cả Hai Con Ðược Hạnh Phúc
Câu chuyện như đã
tới hồi kết thúc thì lại
xảy ra vấn đề mới là
người con cả giận dỗi không
chịu tham gia bữa tiệc mừng em hoang
đàng trở về. Người
cha lại phải chạy ra năn nỉ để
có sự hoà giải vì ông muốn
cho cả hai người con đều được
hạnh phúc. Ðiều làm người
con cả bị vướng mắc là
thái độ tự mãn mà anh khăng
khăng duy trì. Người cha không
tranh luận về mọi điều tốt mà
người con cả lấy làm tự
hào nhưng chỉ năn nỉ xin anh vào
để "ăn mừng và hoan hỉ,
vì em con đây đã chết, nay
lại sống, đã mất nay lại tìm
thấy" (c.32)
2. Nhưng chính Chúa Giêsu muốn bạn giống ai trong các nhân vật được mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay?
3. Bạn nghĩ gì
về trường hợp anh Phan Ðăng
Lê? Sự kiện con người mất
dạy và ngang tàng này ăn năn
trở lại có cho phép bạn thất
vọng về một người nào bạn
biết chăng?