Chủ Thuyết Hòa Bình trong Tam Giáo
Giáo Sư Nguyễn Ðăng Trúc, Strasbourg
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
I. Hòa Bình Trong Nho Học
Nói đến Nho giáo, ta nghĩ ngay đến Khổng tử và các bộ sách và kinh được xem là mẫu mực: Tứ Thư và Ngũ Kinh. Các tác giả thâm cứu Nho học đều cho rằng phần cốt lõi trình bày tư tưởng đó tóm lược trong chương đầu của cuốn Trung Dung.
Ở ngay trong mấy câu của chương nầy, hòa bình được gọi là Trung và Hòa. Và hẳn đó cũng là toàn thể nội dung Nho học về cuộc sống con người và xã hội.
Trung là gốc lớn của thiên hạ,
Hòa là đạt Ðạo, tức là thực hiện trọn vẹn Ðạo của con người.
Và ngay từ đầu sách, Tử Trình Tử lại định nghĩa ngay chữ Trung:
Không thiên lệch, sai lạc là Trung.
Ðạo là Trung, không dời đổi theo sự hưng suy của lịch sử hay cảm nghĩ tùy thích của bất cứ ai. Dẫu con người trong thực tế đã tạo ra nhiều đường đi theo ý mình, dẫu con người có xa Ðạo, nhưng:
Ðạo không xa con người, và con người không được xa đạo giây phút nào.
Và trong thân phận đổi thay của xã hội con người, của phán đoán giá trị tùy lúc, của hoàn cảnh bất cập không thấy không nghe rõ Ðạo đó, người quân tử tức là kẻ muốn ở trong Ðạo nầy cần phải khiêm cung, cẩn trọng.
"Trung" không dời đổi, không có nghĩa là một cái gì vật chất hay một tư tưởng bất động, nhưng là nguyên sơ của Trời Ðất vốn cho con người như thế. Sách Trung Dung nói rõ:
Vui, giận, buồn, sướng chưa phát ra, đó là Trung.
Chưa phát ra, như "cây sự sống" giữa vườn Eden trước khi Adam đưa lên hái. Ðây cũng là lộc, ơn phúc Trời cho đầu năm người dân ta đi tìm.
Kinh Thư, cũng nói như thế:
Lòng người sai lệch; nơi sâu kín của Ðạo thì ẩn kín; hãy thực thà và một mực giữ lấy Trung (tức là Ðạo Tâm).
Và
Khi thực hiện vui, buồn, giận, sướng mà hợp với Ðạo thì gọi là Hòa.
Ðây là điểm cam go của Nho học. "Trúng tiết", trúng cũng là trung; tiết là thời gian, và cũng có nghĩa là một đốt tre trong cây tre. "Thời gian của Trung" là thời hòa giữa việc làm của người với Ý của Ðạo. Nói cách khác, con người làm, nhưng không phải tự mình, mà làm như cánh tay của Ðạo làm.
Nhưng với tâm vốn có nguy cơ sai lạc (di nguy), làm sao thực hiện được cụ thể Ðạo luôn ẩn kín, vượt tầm tay con người, để tạo một thời của Ðạo? Nói cách khác, với xã hội vốn đã thiên lệch, với tâm con người vốn hướng đến xằng bậy và tội ác, ai thực hiện nổi trọn vẹn Ðạo giữa đời nầy để chứng thực có cảnh thái hòa?
Ở chương 11 Sách Trung Dung trả lời như sau: Ðạo đó hạng "phu phụ chi ngu" cũng biết và làm được, nhưng thánh nhân đến chỗ cùng tột cũng bất cập. Và ở chương 4, sách trích lời Khổng Tử nói "Ðạo không còn thi hành được nữa chăng!"
Ðể trả lời về cái cùng tột của đạt đạo, tức là hòa, Khổng Tử thường gợi đến một thời Nghiêu Thuấn xa xưa, hình ảnh của một thời không phải là thời con người lịch sử, nhưng có thể nói "một vườn Eden" nằm trong Ðại-ký-ức.
Vào những chương cuối của sách Luận ngữ, nhiều ẩn sĩ tân-Lão-học bi quan nhắc Khổng Tử và đồ đệ ông là nơi xã hội trần thế không còn cách gì tạo hòa bình được; tốt nhất là nên lui về ở ẩn cho yên thân:
"Có phải là người biết
không thể làm được mà cứ làm ư?"
Khổng Tử cho rằng:
"Muốn sạch cho riêng mình,
mà để loạn cho luân thường xã hội sao!
Người thuận đạo ra làm kẻ sĩ, cứu dân, là để trọn nghĩa làm người của mình. Ðạo không ai thi hành được, thì ta đã biết lâu rồi."
Việc tạo được hòa bình trần thế, nơi xã hội, Khổng Tử cho đó là sự sắp xếp của Trời, và có thể nói tùy lòng người, là những kẻ khác mình nữa. Nhưng đạo làm người trung thực vẫn là cố lắng nghe Ðạo và làm theo tiếng gọi của Ðạo.
Và nghe ở đâu?
Hẳn nhiên, Ðạo không phải tự mình làm ra. Ngay cả Khổng Tử cũng nói rằng người chỉ truyền lại ký ức thuở Nghiêu Thuấn (Ðại Ký Ức).
Trong các biểu tượng khác lấy từ hình ảnh cuộc sống xã hội, của vận chuyển sự sống nơi thiên nhiên, Nho học cố tìm cách nói đến Ðạo qua nhiều phương cách:
Trước hết trong Kinh Dịch, toàn bộ 64 quẻ là con số tượng trưng cho đời sống con người, cũng như Nguyễn Du dùng chữ 100 năm trong cõi người ta. Nếu Nguyễn Du thấy mỗi khoảnh khắc đời người là đấu trường giữa tài và mệnh, giữa đạo do người và Ðạo Trời, thì nơi Kinh Dịch gợi lên sự hiện diện của Ðạo Trời không đổi nơi cuộc sống muôn hình, vạn trạng của con người trong thời gian. Trung Dung tóm lại ý đó khi nói Ðạo không xa người trong một giây một phút của đời sống đổi thay, mặc dầu Ðạo không thiên, không dịch.
Và con đường để thấy Ðạo, múc lấy sức sống của Ðạo để biết được vị trí của mình là phải đi sâu vào lòng mình, tìm nơi bao dung ẩn kín, không phải chỉ bằng lòng với những kiến thức của thế giới đổi thay bên ngoài:
"Nương theo mực thước trời đất,
đừng có tự ý chế biến,
Biết thấu đáo mọi việc để lấy Ðạo cứu thiên hạ,
đừng sai trái,
Khi xuất xử đừng phiêu lưu,
Vui đạo trời và biết rõ phận mình, đừng lo ngại
Cư ngụ "Yên" nơi cung Thổ, nuôi dưỡng đức nhân, luôn nỗ lực yêu thương."
Thế nào là an thổ ?
Cung thổ được biểu thị bằng số năm (5). Con số năm (5) của Trung hoa là sự nối kết giữa số một (1), tức Mẫu mực đo lường cái khác, và bốn (4) tượng trưng cho sự đổi thay, hữu hạn của thời gian không gian.
Và nếu lấy hình ảnh của không gian, ta có Nam, Bắc, Ðông, Tây và Trung tâm. Nếu lấy hình ảnh của các thành tố vật chất ta có Thủy, Kim, Mộc, Hỏa và Thổ là trái đất chứa đựng các chất khác.
Biểu tượng nầy gọi là ngũ hành, kỳ thực đó cũng là cách nói biểu tượng về bản tính con người nơi trần thế. Trọn đạo làm người là làm sao sống hài hòa Ðất-Trời, như trật tự bền vững nối được Trung tâm, trung cung là nơi vua ngồi trị vì và bá quan bốn phương trợ giúp. Khi không có Trung Cung (Thổ), thì không còn vua, mất vương đạo; và hỗn loạn bắt đầu, mỗi quan tự xưng vua, để triệt hạ các quan khác. Ðó là cảnh bá đạo với ý nghĩa là tiếm quyền, lầm lỗi.
Hình ảnh của trật tự xã hội một thời gợi lên một trật tự đạo lý sâu xa liên quan đến chân tính con người.
"An thổ", tức là cư ngụ nơi quê hương thật của con người, là chốn cư ngụ và gặp gỡ của Trời - Ðất. Quê hương đó sâu kín nơi Tâm duy-vi. Ði vào bên trong Tâm Ðạo không phải tìm lấy ước mơ, ý muốn riêng của mình, vì bên trong theo nghĩa nầy cũng chỉ có nghĩa là "tâm duy nguy". "An thổ" là "doãn chấp quyết Trung" nơi Ðạo ẩn kín giúp con người mở ra với Trời cao và người bên cạnh. Ðạo tâm đó cũng gọi là nhân, tức là "người gặp trời đất". Khi đức "Nhân" hiểu theo nghĩa nầy được tồn dưỡng, bấy giờ lòng yêu thương kẻ khác mới trọn nghĩa.
Yêu thương (cố năng ái) phát xuất từ đức nhân, hay nhân tính chân thật, không phải làm điều tốt cho ai theo ý mình, nhưng thực hiện mối tương giao chân thật, tương kính, tôn trọng tự do theo chân lý của Ðạo. "Hòa bình" theo Nho học như thế là trật tự hài hòa giữa Trời và Ðất, giữa cộng đồng nhân loại với nhau.
"Nhân" thường được con người tân thời ngày nay hiểu là Mẫu Mực Con Người hay một Ý Niệm Người do tự mình hoặc ý thức về chính mình, hoặc do lịch sử của nhiều thời đại xây đắp nên. Các chủ thuyết nhân bản tân thời Tây phương thường gọi ý niệm nầy là nhân loại. (= Humanité selon les humanismes modernes). Còn Nho học thì sẽ gọi "nhân loại tự tôn nầy" là "bất nhân tạo bất hòa", vì đây là ý niệm phát sinh do những kẻ không sợ trời đất gì nữa. "Nhân" nơi Khổng Tử có nghĩa là "con người" trong tương quan với "Trời" (nét ngang ở trên) và "Ðất" (là nét ngang ở dưới), như chữ Vương trong vương đạo. "Nhân" đó là "mệnh" theo nghĩa là tính uyên nguyên của con người, không do nơi bất cứ quan điểm, ý muốn riêng của ai, của thời đại nào làm ra. Nguyễn Du đã hiểu thâm sâu sự khác biệt nầy khi nêu lên sự tương khắc, mâu thuẩn giữa "tài" (= người tự đánh giá, làm nên mình) và "mệnh". "Nhân" của Nho thể hiện nơi sự thương yêu người, như Khổng Tử đã trả lời cho Phàn Trì, trong sách Luận ngữ:
Phàn Trì hỏi: Nhân là gì?
Khổng Tữ đáp: Là yêu người.
Nhưng yêu người thế nào mới đúng đạo nhân, vì biết bao lần nhân danh lòng yêu người, con người xâm phạm đến nhân phẩm kẻ khác.
Ðến đây Khổng Tử mới đưa ra những chỉ dẫn thực tiễn. Khi trả lời cho Tử Cống, Ngài nói cách tiêu cực về yêu người là thứ :
"Ðó là lòng thứ: việc gì mình không muốn, chớ đem làm cho người khác."
Và một cách tích cực:
"Thế nào là đạo nhân ư? đó hẳn phải là bậc thánh! Ngay cả Nghiêu Thuấn còn chưa đạt được! Vun trồng đạo nhân, là muốn xây dựng cho người như mình muốn xây dựng cho mình, muốn cho người được thành đạt như mình muốn vui đó cho mình. Cố gần với người trong việc thực hành như thế, có thể nói là phương pháp thực hiện đức nhân."
Nhưng việc đó không phải dễ làm, vì "tâm" người "duy nguy", không những không làm nổi, mà còn không thấy rõ điều mình muốn thế nào cho đúng với chân lý để tạo điều tốt ngay cho chính mình.
Vì thế, trước thực tế nhân sinh, Khổng Tử mới nói với Nhan Uyên:
"Sửa mình theo lễ là thực hiện đức nhân".
Và tiếp đó người nói, không phải "lễ" thì không nên nhìn, không nên nghe, không nên nói, không nên làm.
Sửa mình theo lễ thực hiện đức nhân,
cũng gọi là "kính"
"Tiên vương thực hành lễ, là vâng Ðạo trời để chửa trị tính
người."
"Sự giáo hóa của lễ rất tinh tế, ngăn cấm điều xấu ngay khi chưa thành hình, làm cho người mỗi ngày gần điều thiện xa điều lầm lỗi, mà tự mình không biết."
"Lễ là gì sao, là để đưa về đạo Trung vậy"
Các hình thức sinh hoạt bên ngoài, tùy hoàn cảnh, tùy tâm thức văn hóa gợi lên tâm tình "kính trọng" gọi là "lễ nghi". Nhưng cốt lõi của "Lễ" là lòng kính trọng điều tai thường không nghe, mắt thường không thấy...
"Yêu người" là nhân ái, nhưng kẻ trước mặt mình luôn cao cả hơn những gì mà sức lực, tài trí tự nhiên có thể biết được. Nên "yêu người" đúng đạo nhân trước hết là kính trọng người nơi sự cao cả của họ, mà các cách thẩm định giá trị của mình, của lịch sử xã hội không thể đạt đến được.
Nhưng xã hội có thể biến lễ nghi bên ngoài (vốn là phương cách tùy thời để tỏ bày sự kính trọng con người và Một ai đó cao hơn con người) trở thành mối lo duy nhất bất chấp ý nghĩa bên trong, và bất chấp luôn Ðấng mình phải kính trọng. Bấy giờ người ta chỉ biết trọng nghi lễ chứ không còn trọng người nữa; và nghi lễ biến thành một hình thức xã hội khắc nghiệt, giả hình, vô nghĩa. Nói theo ngôn ngữ nhà Nho, xã hội đã chỉ biết "dụng" mà đánh mất "thể", lấy lễ nghi mà xóa sạch "lòng kinh trọng":
"Khổng Tử nói: người mà bất nhân, thì lễ mà làm gì?"
Qua các thời đại lịch sử của dân tộc ta, không phải bất cứ ai cũng thấu đáo được hết ý nghĩa của đạo Nho, phân tích thành hệ thống theo yêu sách của trường ốc, bác học. Hơn thế nữa, cũng có những cách hiểu, cách áp dụng đạo Nho lấy "dụng" làm "thể", nên có những hiện tượng phản kháng nếp sống cao ngạo, giả tạo và khắt khe của lớp "quan lại hủ nho", những cách đối xử thiếu tình nghĩa trong gia đình và ngoài xã hội, những lễ nghi rườm rà, bất nhân... Sứ điệp nào, tôn giáo nào cũng gặp nguy cơ như thế khi tiếp cận với lịch sử xã hội. Nhưng đằng sau những hiện tượng xã hội tiêu cực trên đây, hồn của đạo Nho vẫn thấm nhập vào nếp sống sinh hoạt của mỗi một người con dân Việt; và đôi khi chính cái hồn đó là sức mạnh tố giác những hình thức nhiêu khê, giả tạo của nếp sống "nho nhã" giả hình.
Từ triều đình đến cuộc sống làng mạc, từ cách cư xử bạn bè, thân quyến đến nếp sống gia đình... Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín được đề xuất như những mẫu mực tạo một trật tự nhân sinh tình nghĩa. Từ vua chúa đến thứ dân, từ người có học đến người dân quê không biết đọc biết viết..., thì "lễ", là sự kính trọng kẻ khác, luôn được cảm nhận như giềng mối của các tương quan xã hội.
Mỗi người biết kính trọng kẻ khác, vì tất cả đều phải kính trọng "Chí Thiện", cái Ðạo sâu kín mà ngay cả Nghiêu Thuấn cũng còn bất cập. Cố tâm thực thi Ðạo, gần, thật gần với người, nhưng không do người làm ra và không bao giờ thấu đáo hết trong thân phận con người của mình, đó là "nghĩa" (= làm điều phải làm).
Nên kẻ kiến tạo hòa bình không ảo tưởng cho rằng một trật tự nào đó nơi dương gian nầy bất kỳ, theo ý con người bày ra, là Hòa thật sự. Nhưng từng bước đi của mình, con người luôn cố gắng noi theo ánh sáng của Ðạo nơi Ðại Ký Ức, nơi Chí Thiện. Nỗ lực liên tục nầy là "nghĩa" của con người.
Chữ "nghĩa" của Nho giáo, cũng như dân Việt Nam ta hiểu không nằm trong khuôn khổ sự hiểu biết sự vật. Nhưng "nghĩa" là bổn phận (= đạo đức) sống nhân phẩm của mình cho đúng với Ðạo - Nhân. Khi người Việt nói làm việc nghĩa, hoặc nói nghĩa làm người, chữ nghĩa đó không có cùng nội dung với chữ nghĩa trong câu nầy: Cái bàn nghĩa là gì?
Từ ý thức nghĩa làm người, dân Việt Nam đã anh dũng đẩy lui, tố giác... những hành vi bạo ngược vi phạm đến tự do và sự sống an bình của đồng bào họ. Và chưa có ai, sử gia nào Việt Nam, dám viết rằng những năm tháng bị ngoại bang đô hộ, vua quan hà hiếp dân chúng... dầu có ổn định bên ngoài từng trăm năm, là những năm tháng hòa bình cả.
Vì tự thâm sâu nơi tâm hồn người Việt Nam, hòa bình chân thật là nỗ lực xây dựng con người và xã hội trong Ðạo lý, một nền hòa bình vốn không phải do bất cứ ai, bất cứ phe nào suy nghĩ ra và áp đặt theo sở thích của mình. Nhưng hòa bình chân thật trong khuôn khổ Trung và Hòa của Nho học có căn nguồn vững bền nơi Tâm Duy Vi, xuất phát từ đáy lòng của mỗi người.