Khi
Ðức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì,
có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Ðông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: "Ðức
Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Ðông, nên chúng tôi đến bái lạy
Người."
Nghe
tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn
xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong
dân lại, và hỏi cho biết Ðấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả
lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép
rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là
thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt
Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời". Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời
các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất
hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quý
ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo
lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người."
Nghe
nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở Phương
Ðông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.
Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi
với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở
bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ
được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi
lối khác mà về xứ mình.
SUY NIỆM
1:
"AD GENTES - HÃY ÐẾN
VỚI LƯƠNG DÂN"
1. MẦU NHIỆM CỦA THIÊN CHÚA
ÐƯỠC TỎ BÀY:
Ðó là "các dân ngoại được cùng
thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và
cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa". Ðiều Thánh Phao-lô khẳng định
trong thư Ê-phê-xô 3, 6 đã được ngôn sứ Isaia báo trước cả bao thế
kỷ ( Is 60,1 - 6 ) và được chính Ðức Giê-su thực hiện ngay khi Ngài
sinh ra làm người ( Mt 2, 1 - 12 ). Câu chuyện ba nhà chiêm tinh (
thường được gọi là ba vua ) đến bái yết và dâng của lễ cho Hài Nhi
Giê-su có nghĩa là Ơn Cứu Ðộ, Ðấng Cứu Ðộ không chỉ được dành riêng
cho người Ítraen mà được dành cho mọi dân tộc trên thế gian này.
Ít-ra-en chỉ là cái cầu, là trạm đầu dừng chân của Con Thiên Chúa,
để Người đến với lương dân ( Ad Gentes ). Chính Ðức Giê-su khi rao
giảng Tin Mừng ở Pa-lét-tin cũng đã nhiều lần khẳng định điều ấy.Ví
dụ khi nói về vai trò mục tử của mình Ðức Giê-su đã tuyên bố:
2. NỖI BỨC XÚC CỦA ÐỨC THÁNH CHA GIO-AN PHAO-LÔ II TRƯỚC NGÀN
NĂM THỨ BA:
Ý thức được tầm quan trọng và
tính cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng cho nhân loại trong thiên
niên kỷ thứ ba, Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã cho tổ chức mừng
kỷ niệm 2.000 năm biến cố Chúa Giê-su xuống thế làm người và sinh
ra là một con người vào năm 2000 vừa qua. Ðể chuẩn bị cho Năm Thánh
2000 ấy. Ðức Thánh Cha đã lần lượt tổ chức các Thượng Hội Ðồng
Giám Mục mỗi châu lục: Mỹ, Phi, Âu, Á để các Giám Mục địa phương
cùng với Ðức Thánh Cha và các vị có trách nhiệm ở Giáo Triều Rô-ma
nghiên cứu, tìm tòi, trao đổi, cầu nguyện để tìm cách trình bày Giáo
Lý và Tin Mừng một cách thích hợp nhất của con người thời nay. Nhờ
đó các Giáo Hội Mỹ, Phi, Âu, Á ý thức hơn về nhiệm vụ năng nề và
các thách đố lớn lao đang được đặt ra cho mình trong lãnh vực Truyền
Giáo.
2. NỖI NHỨC NHỐI CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU Á CHÂU:
ÐỨC GIÊ-SU LÀ NGƯỜI Á CHÂU NHƯNG CÒN
XA LẠ VỚI NHIỀU NGƯỜI Á CHÂU:
Riêng các Giáo
Hội Á Châu đã có Thượng Hội Ðồng Giám Mục về Á Châu được tổ
chức từ ngày 19.4 đến ngày 14.5.1998 với chủ đề: "Chúa Giê-su
Ki-tô, Ðấng Cứu chuộc và sứ mạng yêu thương và phục vụ của Ngài
tại Á Châu: Ðể họ được sống và sống dồi dào" ( Ga 10,10 ). Sau
đó vào ngày 6.11.1999 tại New Delhi ( Ấn-độ ), Ðức Gio-an Phao-lô II
đã công bố Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á ( Ecclesia in Asia ). Trong
Thượng Hội Ðồng Giám Mục quan trọng này các Giám Mục tham dự đã
bày tỏ nỗi nhức nhối riêng của mình và của các Ki-tô hữu Á Châu,
nỗi nhức nhối đã được chính Ðức Thánh Cha nhắc lại trong Tông Huấn
Giáo Hội tại Châu Á:
"Theo ý kiến
của các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng, những khó khăn còn tăng thêm vì Ðức
Giê-su thường được cho là xa lạ với Châu Á. Thật là nghịch lý
khi nhiều người Á châu có khuynh hướng nhìn Ðức Giê-su như là một
người Tây Phương hơn là một người Á Châu dù Ngài đã sinh ra trên
chính mảnh đất Á Châu" ( số 20 ).
4. LÀM THẾ NÀO ÐỂ ÐỒNG BÀO VIỆT NAM NHẬN BIẾT VÀ XƯNG TỤNG
CHÚA GIÊ-SU LÀ NGƯỜI "Á CHÂU" VÀ LÀ
CỨU CHÚA ?
4.1 Trước tiên phải làm sao để nỗi
nhức nhối chung của người Ki-tô hữu Á Châu nói trên trở thành nỗi
nhức nhối riêng của các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo
Dân Việt Nam. Thật ra nếu suy nghĩ cho đến nơi đến chốn, chúng ta còn
phải có một nỗi nhức nhối khác nữa: Là con cháu của 117 Vị Thánh
Tử Ðạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì Ðạo, chúng
ta có trách nhiệm rất lớn trong việc bảo vệ và truyền bá Ðức Tin
cho đồng bào Việt Nam. Có lẽ trong khoảng hơn 50 năm qua ( tính từ 1954
) chúng ta đã kiên cường bảo vệ Ðức Tin chống lại các đợt bách hại
từ bên ngoài. Ðó là một nét son của Giáo Hội Việt Nam, cách riêng
của Giáo Hội Miền Bắc ( kể từ vĩ tuyến 17 trở ra ). Nhưng có lẽ
chúng ta chưa chú tâm đủ đến việc truyền bá Ðức Tin cho các thế hệ
kế tiếp và cho lương dân là đồng bào ruột thịt của chúng ta! Có thể
trong những thập niên vừa qua, chúng ta bị giới hạn quá nhiều trong
các sinh hoạt tôn giáo.
4.2
Theo tôi có lẽ Giáo Hội Việt Nam nên khơi lên một Phong Trào về
Truyền Giáo sâu rộng trong các giáo xứ, giáo phận và trong các hội
đoàn Công Giáo tiến hành cũng như trong các hiệp hội gia đình và các
Dòng Tu. Chúng ta nên đầu tư tài chánh, khả năng, nhân sự... vào
công cuộc cao cả và cực kỳ quan trọng này, ít là tương đương với
việc chúng ta đầu tư vào việc xây cất Thánh Ðường, mở rộng cơ sở
Dòng Tu. Tại sao chúng ta không bắt chước kinh nghiệm quý báu của
Giáo Hội Hàn Quốc ?
Giáo
Hội này có hai kinh nghiệm mà chúng ta nên học tập. Kinh nghiệm thứ
nhất: Giáo Hội Hàn Quốc đã có một Chiến Lược Truyền Giáo tuyệt
diệu như sau: mỗi người Công Giáo Hàn quốc, - bất kể nam nữ, già
trẻ - phải tìm cách kết thân, kết nghĩa với một người không Công
Giáo, coi người đó như anh chị em ruộc thịt của mình, thường xuyên lui
tới trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ khi có dịp ? Từ sự gần gũi và quan
tâm vô vị lợi của nhiều người Công Giáo Hàn Quốc ấy, nhiều người
không Công Giáo đã hiểu thế nào là người có Ðạo và nhiều người
đã tìm hiểu và gia nhập Giáo Hội. Kinh nghiệm tuyệt vời thứ hai mà
chúng ta nên suy nghĩ: Giáo Hội Hàn Quốc chính thức sai ( mandat ) một
số giáo dân, trong đó có những cặp vợ chồng đi truyền giáo. Họ là
những người tình nguyện nhưng được Giáo Hội đào tạo và nâng đỡ tinh
thần, đôi khi cả vật chất nữa, để có thể sống tại môi trường mới
và làm chứng cho Tin Mừng và xây dựng cộng đoàn Ðức Tin.
4.3
Muốn được như thế có lẽ không thể không nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của việc học hỏi và đào sâu Thánh Kinh, Giáo Lý, Công Ðồng.
bằng các khóa đào tạo, các hội nghị, các buổi thuyết trình và thảo
luận, các đợt tĩnh tâm, các chuyến đi truyền giáo. Cũng cần phải
trang bị một số kỹ năng cần thiết cho giáo dân, để họ biết cách
tiếp xúc với anh em chị ngoài Công Giáo, mà không mặc cảm và không
gây tác động ngược.
Mới
đây tôi có dịp tham dự một buổi sinh hoạt thuộc Khóa Huấn Luyện về
Truyền Giáo của linh mục đặc trách Truyền Giáo của Giáo Phận Cần
Thơ. Tham dự viên là khoảng 40 - 50 Giáo Dân nam nữ của một số Giáo
Xứ thuộc thành phố Cần Thơ và vùng lân cận. Các học viên được học
cả lý thuyết tức Giáo Lý, Thánh Kinh lẫn các Phương Pháp Thực Hành.
Tôi cho rằng những Khóa Huấn Luyện như vậy rất hữu ích và cần
thiết. Nhưng tại sao các Giáo Xứ, Giáo Phận khác, tại sao
các Hội Ðoàn của chúng ta không mở các Khóa Huấn Luyện tương tự ? Tại
chúng ta thiếu nhân sự, tài chánh hay tại chúng ta chưa yêu Chúa và
đồng bào mình cho đủ mạnh ?
Ðối với tôi, cách mừng Lễ Hiển Linh một
cách ý nghĩa nhất là tôi tìm đến và kết thân với một hai anh chị em
ngoài Công Giáo sống bên cạnh nhà tôi hay trong cùng môi trường lao
động nghề nghiệp với tôi.
Lạy Chúa Cha yêu thương, chúng con cảm tạ
Cha về Mầu Nhiệm Hiển Linh mà Cha đã mặc khải trong Ðức Giê-su
Ki-tô, Con Cha, Chúa chúng con
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã tỏ mình ra
cho ba nhà chiêm tinh Phương Ðông, vì Chúa đến trần gian này là để
gặp gỡ và cứu độ hết mọi người và đem mọi người vào trong mái ấm
của nhà Cha. Xin Chúa thứ tha cho chúng con vì bấy lâu nay chúng con
không quan tâm đến việc làm cho những người xung quanh chúng con gặp
gỡ và nhận biết Chúa. Từ này xin Chúa hãy dùng chúng con như những
dấu chỉ và công cụ của Chúa để làm cho anh chị em lương dân gặp gỡ
và nhận biết Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, ba
nhà chiêm tinh Phương Ðông đã lên đường tìm kiếm Chúa Giê-su mới sinh
ra, nhờ có ánh sao soi đường dẫn lối. Xin Chúa soi sáng và hướng dẫn
các tâm hồn thành tâm thiện chí để họ gặp được Chúa Giê-su Cứu Ðộ
và nhìn nhận, tùng phục và yêu mến Ngài !
Gs. Giê-rô-ni-mô
NGUYỄN VĂN NỘI
SUY NIỆM
2:
CHÂN LÝ - CÔNG LÝ - TÌNH THƯƠNG
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy
ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với Ðức Giê-su
mới sinh ra. Trước hết là các nhà chiêm tinh đến từ Phương Ðông, sau
là các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua
Hê-rô-đê.
1. THÁI ÐỘ CỦA CÁC NHÀ CHIÊM TINH ÐÔNG PHƯƠNG
Các nhà chiêm tinh được nói
đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do-thái
Giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến
thờ lạy Ðức Giê-su, Ðấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của
toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là
thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa,
với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ
quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như
Ðức Giê-su nói: "Ai xin thì sẽ
được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho" ( Mt 7, 8 ). Khi ngôi sao
biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn
tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: "Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy,
bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta" ( Gr 29, 13 ); "Kẻ
yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta" ( Cn 8, 17 ).
2. THÁI ÐỘ CỦA CÁC THƯỠNG TẾ VÀ KINH SƯ TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Các thượng tế và kinh sư
Do-thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo
các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì
thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người
có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao
giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Ðức Giê-su đến,
những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ
trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Ðấng Cứu Thế sinh ra tại
Bê-lem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để
mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không
phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế,
cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.
Cũng vậy, rất nhiều Ki-tô
hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết
chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không
phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự
hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Ðức Giê-su nói: "Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem
ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá... Còn ai
nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được
như người ngu dại xây nhà trên cát"
( Mt 7, 24.26 ). "Mẹ tôi và anh
em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" ( Lc 8, 21 ); "Anh em đã biết những điều đó, nếu anh
em thực hành, thì thật phúc cho anh em" ( Ga 13, 17 ); "Phúc
thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa" ( Lc 11, 28 ). Dụ ngôn người gieo giống ( Lc 8, 11 -
15 ) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng
vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất "vệ đường", đầy "đá
sỏi", đầy "bụi gai", khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những
ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời
Chúa sinh hoa kết trái.
3. BÀI HỌC CHO NHỮNG AI ÐANG THEO CHÍNH ÐẠO
Câu chuyện về hai mẫu người
trên cho chúng ta bài học quý giá. Những người tưởng rằng mình đang
nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong
tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng
bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên
Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại sống động,
không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ
có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể
nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn
sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên
đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm
kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi
ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình
đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong
tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường
hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương.
Thật vậy, những ai dù đang
theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang
nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo
của mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ
tự lừa dối chính mình: "Anh em
hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính
mình" ( Gc 1, 22 ). Những
ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình
lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh
Phao-lô: "Tôi phải bắt thân
thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác,
chính tôi lại bị loại bỏ"
( 1 Cr 9, 27 ).
Chuyện các nhà chiêm tinh -
mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các
dân tộc - cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo
chân chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì
họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý
và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn
giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với
việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng
gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình
thương.
Tôn giáo chân chính được ví
như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách
an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những
loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào
loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe,
phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt
và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì
không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng
đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.
4. THÁI ÐỘ CỦA VUA HÊ-RÔ-ÐÊ, NHÀ CẦM QUYỀN
Nói tới Hê-rô-đê, ta thấy
ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: "Ðức Vua dân Do-thái mới sinh». Ông
sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết
hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế,
tính tham quyền cố vị - ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội - có thể
làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra
là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hê-rô-đê quyết tâm tìm giết
con trẻ Giê-su bằng cách "sai
người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ
hai tuổi trở xuống" ( Mt
2, 16 ).
Tin Mừng không nói đến thái
độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền.
Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Ðấng Cứu
Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ
không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Ðấng Cứu Thế
Hài Nhi. Ðối với họ, sinh mạng của Ðấng Cứu Thế chẳng là gì cả,
chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho
vững những "chiếc ghế của
họ trong tôn giáo Do-thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy
đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền ? Im lặng
cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của
những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng "bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến" ( Ga 10, 12 ) thì họ cũng
sẵn sàng im lặng bỏ mặc Ðấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra,
dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.
Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha
sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho
thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha - là chân lý, công lý và
tình thương - thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo
mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà
thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.
Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT
SUY NIỆM
3:
THIÊN CHÚA - MỘT HUYỀN NHIỆM
Khi dạy Giáo Lý cho người
lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi
hay hỏi: "Các bạn yêu nhau lắm phải không ? Yêu đến mức lỡ ngày nào
không gặp nhau, ta nhớ thương, nhớ tiếc, nhớ da, nhớ diết, nhớ như có
ai xé lòng mình, đúng không ?" Hầu hết các bạn đều mỉm cười bẻn
lẻn. Tôi nói tiếp: "Các bạn yêu nhau lắm, tưởng như người này
hòa trộn trong người kia, nhưng người kia nghĩ gì, bạn có biết không ?"
Tất cả trả lời: "Không !"
Mỗi người là một huyền
nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là tình yêu lứa đôi,
một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn
cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi. Càng không lạ gì khi Thiên Chúa luôn
luôn là huyền nhiệm của con người.
Lễ Hiển Linh tức là lễ
Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Ðại diện cho dân ngoại là ba nhà
đạo sĩ phương Ðông. Ba ông nhận ra ánh sao trên bầu trời và vội vã
lên đường đi tìm Con Thiên Chúa vừa giáng sinh. Gọi là Thiên Chúa tỏ
mình, nhưng sự tỏ mình qua một ánh sao vẫn cho thấy Thiên Chúa là một
huyền nhiệm lớn lao vô cùng. Dẫu ngôi sao trên bầu trời có lạ
thường đến đâu, có sáng chói đến mức độ nào, thì sự tỏ mình ấy
vẫn mù mờ, vẫn xa xăm đối với nhận thức của con người.
Bởi đó, chỉ có ai thao thức
tìm kiếm Thiên Chúa, chỉ có trung thành sống Ðức Tin mới có thể nhận
ra Thiên Chúa đang tỏ mình với cuộc đời nói chung và cuộc đời của
chính mình nói riêng. Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng tự bản chất, Ngài
là một huyền nhiệm, nên để nhận ra sự tỏ mình của Thiên Chúa, mãi
mãi vẫn cần một điều kiện. Ðiều kiện đó là lòng thao thức tìm kiếm
Thiên Chúa và sống Ðức Tin trung thành. Có như thế, ta mới có thể
nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời ta dẫu là sướng vui hay
hạnh phúc.
Nói đơn giản: Thiên Chúa vẫn
đang hiện diện và luôn luôn tỏ mình, chỉ cần bạn thao thức tìm kiếm
Ngài và trung thành sống Ðức Tin, bạn sẽ nhận ra Ngài. Ba nhà đạo sĩ
đã lên đường tìm kiếm. Bạn cũng sẽ nhận ra Thiên Chúa tỏ mình bằng
đời sống Ðức Tin, bằng sự cầu nguyện, bằng tình yêu mà bạn hiến
dâng cho Ngài.
SUY NIỆM
4:
Chu
kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành
việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng
là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ
Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên
Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar,
Melchior và Balthasar là ba nhà Ðạo Sĩ nổi tiếng ở Ðông Phương được
mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ
trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bê-lem, xứ Giu-đê để thờ lạy Ðấng
Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
Chúng
ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bê-lem có Hài Nhi Giê-su để suy niệm về
sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Ðồng, các Ðạo Sĩ
với Ðấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Ðồng, các Ðạo Sĩ tìm gặp được
Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng
thần linh chiếu sáng cho họ. Ðức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết
lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi
các Mục Ðồng canh giũ chiên ở ngọn đồi Bê-lem, họ bỡ ngỡ vì vẻ
đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em
một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một
Ðấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Ða-vít, Người là
Ðấng Ki-tô Ðức Chúa ( Lc 2, 10 - 12 ). Còn các Ðạo Sĩ ở bên
kia xứ Ma-đi-an và Ba-tư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao
chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên
Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Ðồng
và các Ðạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên
Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ
chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho
đến tận cùng thời gian. Ðó là các Mục Ðồng và các Ðạo Sĩ, những
người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Ðồng
là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương,
nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ
và họ ở giữa đoàn chiên. Ðêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo
Tin mừng. Thiên Thần cho biết Ðấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra
trong Hang đá Bê-lem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Ðấng Chăn Chiên của
họ
Các
Ðạo Sĩ tìm gặp Ðấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là
những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn
mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ
và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Ðối với khoa học và tôn
giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn
hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước
khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác
của ba Ðạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.
Chính
nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy
Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Ðối với kẻ kiêu ngạo, tự
phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là
một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các
Ðạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm.
Ðến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Ðạo Sĩ chiêm ngắm
một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến
dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế
gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là
vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như
mọi người. Các Ðạo Sĩ đã tìm gặp được Ðấng Khôn Ngoan.
Chỉ
có các Mục Ðồng và các Ðạo Sĩ đã tìm gặp được Ðấng Cứu Thế. Trong
khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi
lẽ: Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy
bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê
cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở,
không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào
cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc ( Ðức Cha Bùi
Tuần ).
Thời
nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những
người vô thần theo thuyết bất khả tri... nhưng không ai trong họ đã
nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của
những Hê-rô-đê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên
Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp
nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Ðồng, quá đầy kiến
thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Ðạo Sĩ đem đến. Dòng dõi
này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể
chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Ðiều kiện
tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung
cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như
các Mục Ðồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không
biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Ðạo Sĩ gặp được
Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa
Giê-su không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng.
Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi
vào. Ðó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Ðồng và các Ðạo Sĩ đủ
đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong
Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp
mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Ðấng dùng những ngón tay bé
nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Ðồng và các Ðạo Sĩ quỳ
gối, có lẽ các Ðạo Sĩ ghen với các Mục Ðồng vì con đường của các
Mục Ðồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau
hơn.
Bước
vào ngàn năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại
đến với Con Một của Ngài là Ðức Giê-su Ki-tô. Ngài vẫn không ngừng
cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà
là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành
với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của
mình.
Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu
Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hê-rô-đê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên
tại chỗ. Họ tìm Ðấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra
Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố
định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Ðồng, những tâm hồn
cởi mở khao khát chân lý như các Ðạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận
biết Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ
tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua
các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Ðể gặp Ngài, chúng ta cần có
lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh
sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
CẢM NHẬN:
Hiện nay trên thế giới có khoảng một trăm
triệu người không có nhà để ở. Riêng tại Châu Mỹ La-tinh, có
khoảng 20 triệu trẻ em đang ngủ đầu đường xó chợ. Nhìn chung, có một
tỷ người trên thế giới không có được một nơi ở tươm tất. Trên đây
là kết quả của một cuộc điều tra dựa trên những con số do các Hội
Ðồng Giám Mục và các Giáo Hội Công Giáo địa phương cung cấp. Cuộc
điều tra này do Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh thực hiện
và ấn hành thành lập một tập tài liệu vào dịp cuối Năm Quốc Tế
Những Người Không Nhà Không Cửa do Liên Hiệp Quốc khởi xướng từ
năm 1988.
Theo
tập tài liệu này thì vấn đề nhà ở chắc chắn là một trong những
vấn đề trầm trọng nhất của thế giới ngày nay. Tài liệu cho thấy
những kẻ không nhà là những người nghèo nhất trong số những người
nghèo và tố cáo những người chủ nhà chỉ vì tính toán thủ lợi mà
thà bỏ trống những căn nhà hơn là hạ giá để nâng đỡ những kẻ
không nhà.
Chúa
Giê-su đã chào đời như một con người không nhà không cửa. Ngài đến
là để cho con người được sống và sống một cách sung mãn. Tiếng kêu
khóc chào đời của Ngài giữa khung cảnh cùng cực của hang lừa máng
cỏ, là tiếng kêu than của hàng triệu triệu trẻ em đang bị tước đoạt
quyền sống, đang bị từ chối những điều kiện cơ bản nhất để được
sống như con người.
Máng
cỏ mà chúng ta đang chuẩn bị ở Nhà Thờ hay trong gia đình phải là một
nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện và tiếng van xin của không
biết bao nhiêu người không nhà, không cửa xung quanh chúng ta. Hơn ai
hết, người Việt Nam chúng ta đang nhìn thấy tận mắt thế nào là cảnh
lang thang đầu đường xó chợ.
Chúng
ta chuẩn bị một trú ngụ cho Hài Nhi Giê-su, chúng ta có nghĩ đến
những người cùng khổ xung quanh chúng ta không ?
Chúng
ta có biết rằng khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước đau khổ của
người anh em chúng ta là chính lúc chúng ta khước từ Chúa Giê-su
không ?
Chúng
ta có biết rằng ngày Giáng Sinh của Chúa Giê-su cũng là ngày Giáng
Sinh của những con người cùng khổ nhất không ?
Chắc
chắn Chúa Giê-su sẽ không bao giờ đến trong máng cỏ hào nhoáng của
chúng ta, nếu chúng ta xua đuổi những người khốn khổ xung quanh chúng
ta.
CHIA SẺ:
Dưới đây là bảng liệt kê các bản văn Thánh Kinh có thể giúp
ta tìm thấy ý nghĩa của các biến cố, các hoàn cảnh trong đời thường
mà ta gặp phải, từ đó ta có thể suy niệm và cầu nguyện để khám
phá ra tiếng nói của Chúa đang nói gì với ta từ những biến cố hoặc
hoàn cảnh ấy. Những bản văn Thánh Kinh được ví von như những số điện
thoại mà ta có thể gọi khẩn cấp bất cứ lúc nào:
CÁC TÌNH HUỐNG
VÀ BIẾN CỐ TRONG CUỘC SỐNG |
HÃY GỌI VÀO... |
Khi
buồn rầu |
Tin Mừng Gio-an 14 |
Khi
bị bỏ rơi |
Thánh Vịnh 27 |
Khi
muốn gặt hái thành công |
Tin Mừng Gio-an 15 |
Khi
đã phạm tội |
Thánh Vịnh 51 |
Khi
lo lắng |
Tin Mừng Mát-thêu 6, 19 - 34 |
Khi gặp
nguy hiểm |
Thánh Vịnh 91 |
Khi
Thiên Chúa dường như xa vắng |
Thánh Vịnh 139 |
Khi
Ðức Tin cần khuấy động |
Thánh Vịnh 27 |
Khi
cô đơn sợ sệt |
Thánh Vịnh 23 |
Khi
cay đắng và muốn chỉ trích |
1 Cô-rin-tô 13 |
Ðể có
bí quyết sống hạnh phúc của Phao-lô |
Cô-lô-xê 3, 1 - 17 |
Ðể
hiểu được Ki-tô giáo |
2 Cô-rin-tô 5, 15 - 19 |
Khi
cảm thấy xuống tinh thần và thất vọng |
Rô-ma 8, 31 |
Khi
muốn bình an và nghỉ ngơi thư thái |
Tin Mừng Mát-thêu 11, 25 - 30 |
Khi
thế giới dường như lớn hơn Thiên Chúa |
Thánh Vịnh 90 |
Khi
muốn có được sự bảo đảm Ki-tô giáo |
Rô-ma 8, 1 - 30 |
Khi
rời khỏi nhà để đi làm việc hoặc du lịch |
Thánh Vịnh 121 |
Khi lời
cầu nguyện có vẻ như hẹp hòi hoặc ích kỷ |
Thánh Vịnh 67 |
Ðể
có một sáng kiến phát minh hoặc có một cơ hội lớn |
I-sai-a 55 |
Khi
muốn có can đảm để nhận lấy một công việc |
Giô-suê 1 |
Ðể sống
hòa hợp với mọi người chung quanh |
Rô-ma 12 |
Khi
nghĩ đến chuyện đầu tư làm ăn và thu hồi vốn |
Tin Mừng Mác-cô 10 |
Khi
sa sút tinh thần |
Thánh Vịnh 27 |
Khi
túi tiền trống rỗng |
Thánh Vịnh 37 |
Khi mất
lòng tin nơi kẻ khác |
1 Cô-rin-tô 13 |
Khi
thiên hạ có vẻ không cư xử tốt với ta |
Tin Mừng Gio-an 15 |
Khi
đang thất vọng về công việc của mình |
Thánh Vịnh 126 |
Khi
thấy thế giới trở nên nhỏ bé, còn ta thì vĩ đại |
Thánh Vịnh 19 |
CÁC SỐ KHÁC:
- Ðể
đối phó với sợ hãi kinh hoàng, hãy gọi Thánh Vịnh 34, 7.
- Ðể
cảm thấy được an toàn yên ổn, hãy gọi Thánh Vịnh 121, 3.
- Ðể cảm
thấy được an tâm vững dạ, hãy gọi Mác-cô 8, 35.
- Ðể
cảm thấy bình an nơi thâm sâu tâm hồn, hãy gọi Thánh Vịnh 145, 18.
CHÚ Ý:
Tất cả các đường dây nối vào mạng của Nước Trời đều hoạt động 24 /
24 giờ. Hãy bồi dưỡng Ðức Tin và rồi sự nghi nan sẽ biến
mất. Hãy tin tưởng và can đảm lên !
Lm. JB. NGUYỄN MINH HÙNG, Giáo Phận
Phú Cường ( sưu tầm )
THÔNG TIN:
- Các ân nhân ẩn danh giúp GLV nghèo ở Kontum ............................................................. quần áo cũ, mì gói, 500.000 VND
- Một Linh Mục ẩn danh ( Sài-gòn ) ............................................................................................................................. 100.000 VND
( Xin đính chính số tiền Giáo Xứ Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp
chia sẻ với người nghèo là ......................... 12.000.000 VND )
- Tặng quà anh em dân tộc từ Ðiểm Truyền Giáo Fyan về
thăm Sài-gòn.................................. 3
thùng mì và 500.000 VND
- Tặng quà cho các em thiếu nhi mẫu giáo nông thôn Miền
Bắc ................................................. 2 thùng đồ chơi Mẫu Giáo
CHƯƠNG
TRÌNH HỌC BỔNG BẮC NINH CHO 71 EM MIỀN BẮC
Các Soeurs Dòng Ða-minh Xuân Hòa, Giáo Phận
Bắc Ninh, giới thiệu một
danh sách gồm 71 em ở rải rác tại vùng nông thôn nghèo của các tỉnh
Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phúc Yên, Ninh Bình, Hà Nội, Hưng Yên, những nơi
đang có các soeurs phục vụ. Năm 2001, chúng tôi đã giúp được một
lần cho 65 em ( đợt đầu ). Nay xin tiếp tục trợ giúp tháng
1.2003 cho 71 em ( đợt 2 đã
bổ sung ), tổng cộng: 3.550.000 VND. Rất mong quý độc giả và ân nhân gần xa chia sẻ thêm để
có thể trợ giúp các em liên tục và lâu dài.
01. Phan-xi-cô NGUYỄN
ÐỨC VỮNG, sinh 20.1.1993, Bắc Ninh, học lớp 2
02. Phan-xi-cô NGUYỄN
ÐÌNH TƯỜNG, sinh 15.5.1993, Bắc Ninh, học lớp 2
03. An-na NGUYỄN THỊ LAN, sinh
20.1.1997, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
04. Giu-se NGUYỄN VĂN
TƯỜNG, sinh 8.10.1994, Vĩnh Phúc, học lớp 1
05. Ma-ri-a NGUYỄN THỊ
YẾN, sinh 10.6.1994, Ninh Bình, học lớp 1
06. Ma-ri-a NGUYỄN THỊ
THO, sinh 5.2.1993, Ninh Bình, học lớp 2
07. An-na TRẦN THỊ THƠ, sinh
1.10.1994, Vĩnh Phúc, học lớp 3
08. An-na TRẦN THỊ THỦY, sinh
15.5.1997, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
09. An-na NGUYỄN THỊ
HẰNG, sinh 12.10.1990, Vĩnh Phúc, học lớp 5
10. Giu-se TRẦN VĂN
HOÀNG, sinh 3.12.1996, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
11. Giu-se TRẦN VĂN
KHÁNH, sinh 17.6.1994, Vĩnh Phúc, học lớp 2
12. Phê-rô TRẦN VĂN
TUÂN, sinh 10.2.1988, Vĩnh Phúc, học lớp 7
13. An-na NGUYỄN THỊ NGA, sinh
10.7.1992, Vĩnh Phúc, học lớp 3
14. An-na LÊ THỊ VÂN ANH,
sinh 7.10.1993, Vĩnh Phúc, học lớp 2
15. Giu-se
NGUYỄN VĂN THU, sinh 7.10.1996, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
16. Giu-se
NGUYỄN VĂN HẬU, sinh 20.8.1993,Vĩnh Phúc, học lớp 2
17. An-na TRẦN THỊ PHƯƠNG,
sinh 2.7.1997, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
18. Giu-se TRẦN VĂN
CƯỜNG, sinh 1.10.1994, Vĩnh Phúc, học lớp 1
19. Giu-se NGUYỄN HỒNG
ÂN, sinh 3.10.1990, Vĩnh Phúc, học lớp 4
20. Giu-se NGUYỄN VĂN
QUYNH, sinh 3.7.1993, Vĩnh Phúc, học lớp 2
21. Giu-se NGUYỄN VĂN
TÍNH, sinh 5.10.1992, Vĩnh Phúc, học lớp 3
22. Giu-se NGUYỄN VĂN
TÂM, sinh 2.7.1992, Vĩnh Phúc, học lớp 3
23. An-na NGUYỄN THỊ
HIỆP, sinh 6.1.1996, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
24. Giu-se NGUYỄN VĂN
TRANG, sinh 7.4.1992, Vĩnh Phúc, học lớp 3
25. Giu-se NGUYỄN VĂN
TÙNG, sinh 9.7.1992, Vĩnh Phúc, học lớp 3
26. Giu-se TRẦN VĂN
NGHĨA, sinh 24.11.1992, Vĩnh Phúc, học lớp 3
27. An-na TRẦN THỊ LIỄU, sinh
1.5.1994, Vĩnh Phúc, học lớp 1
28. Ma-ri-a NGUYỄN THỊ
CÚC, sinh 5.10.1992, Bắc Ninh, học lớp 3
29. Phan-xi-cô NGUYỄN
VĂN BẢO, sinh 15.6.1994, Bắc Ninh, học lớp 1
30. Phan-xi-cô NGUYỄN
TRẠNG ÁNH, sinh 10.3.1997, Bắc Ninh, học lớp Mẫu Giáo
31. An-na BÙI THỊ TRANG, sinh
10.4.1993, Bắc Ninh, học lớp 2
32. Phan-xi-cô NGUYỄN
VĂN KHÚC, sinh 5.5.1991, Hà Nội, học lớp 3
33. Ma-ri-a ÐẶNG THỊ MỸ, sinh
10.8.1977, Hà Nội, học lớp Mẫu Giáo
34. Ma-ri-a NGUYỄN THỊ
DUYÊN, sinh 10.10.1997, Hà Nội, học lớp Mẫu Giáo
35. Giu-se TRỊNH VĂN
TUẤN, sinh 10.12.1995, Hưng
Yên, học lớp 1
36. Giu-se NGUYỄN ÐÌNH
SÓNG, sinh 12.10.1990, Bắc Ninh, học lớp 5
37. Ma-ri-a NGUYỄN THỊ
HOA, sinh 7.5.1988, Bắc Ninh, học lớp 6
38. Giu-se NGUYỄN ÐỨC
ÐẠO, sinh 20.8.1986, Bắc Ninh, học lớp 8
39. Ma-ri-a NGUYỄN THỊ
THÀNH, sinh 15.6.1992, Bắc Ninh, học lớp 2
40. Giu-se NGUYỄN ÐỨC
TỪNG, sinh 2.3.1993, Bắc Ninh, học lớp 1
41. Giu-se BÚI QUANG
TÙNG, sinh 5.10.1990, Bắc Ninh, học lớp 4
42. Ma-ri-a NGUYỄN THỊ
GẤM, sinh 17.5.1995, Hưng Yên, học lớp Mẫu Giáo
43. Giu-se NGUYỄN VĂN
HIẾU, sinh 10.8.1997, Hưng Yên, học lớp Mẫu Giáo
44. An-na NGUYỄN THỊ VÂN,
sinh 10.2.1990, Hưng Yên, học lớp 5
45. Giu-se NGUYỄN MINH HẢI,
sinh 13.4.1987, Hà Nội, học lớp 8
46. Giu-se NGUYỄN VĂN
BÌNH, sinh 15.11.1997, Hưng Yên, học lớp Mẫu Giáo
47. Giu-se NGUYỄN VĂN
CHUYỂN, sinh 18.8.1997, Bắc Ninh, học lớp Mẫu Giáo
48. Ma-ri-a NGUYỄN THỊ
TƯƠI, sinh 25.10.1993, Bắc Ninh, học lớp 3
49. An-na NGUYỄN THỊ DUNG,
sinh 25.12.1993, Bắc Ninh, học lớp 2
50. An-na NGUYỄN THỊ
NGỌC, 25.6.1989, Bắc Ninh, học lớp 4
51. An-na NGUYỄN THỊ CHÍN,
sinh 5.10.1989, Bắc Ninh, học lớp 4
52. An-na NGUYỄN THỊ BÍCH
THỦY, sinh 2.3.1993, Bắc Ninh, học lớp 2
53. Giu-se TRẦN VĂN NAM, sinh
10.6.1993, Vĩnh Phúc, học lớp 3
54. An-na NGUYỄN THỊ
HIỀN, sinh 19.2.1997, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
55. An-na NGUYỄN THỊ LAN, sinh
25.9.1997, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
56. An-na NGUYỄN THỊ
HUYỀN, sinh 23.11.1992, Vĩnh Phúc, học lớp 4
57. Giu-se NGUYỄN VĂN
LINH, sinh 7.12.1997, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
58. An-na NGUYỄN THỊ MAI, sinh
10.3.1997, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
59. An-na NGUYỄN THỊ PHƯƠNG,
sinh 12.4.1991, Vĩnh Phúc, học lớp 4
60. Giu-se NGUYỄN CHÍ
THANH, sinh 6.10.1995, Vĩnh Phúc, học lớp 2
61. Giu-se NGUYỄN VĂN
LỊCH, sinh 15.8.1994, Vĩnh Phúc, học lớp 2
62. An-na NGUYỄN THỊ VÂN,
sinh 13.5.1997, Vĩnh Phúc, học lớp Mẫu Giáo
63. Giu-se NGUYỄN VĂN
THẮNG, sinh 16.8.1994, Bắc Ninh, học lớp 1
64. An-na NGUYỄN THỊ
HẰNG, sinh 15.6.1089, Bắc Ninh, học lớp 4
65. Giu-se NGUYỄN VĂN
THẮNG ( TOÀN ), sinh 6.7.1987, Bắc Ninh, học lớp 5
66. An-na NGUYỄN THỊ MAI, sinh
5.6.1996, Phúc Yên, học lớp 1
67. An-na TRẦN THỊ THU, sinh
10.3.1994, Phúc Yên, học lớp 3
68. An-na TRẦN THỊ HẬU, sinh
15.7.1997, Phúc Yên, học lớp Mẫu Giáo
69. Giu-se NGUYỄN VĂN
THANH, sinh 20.10.1998, Phúc Yên, học lớp Mẫu Giáo
70. An-na NGUYỄN THỊ
HẰNG, sinh 6.5.1984, Phúc Yên, học lớp 5
71. Giu-se NGUYỄN VĂN
NAM, sinh 28.11.1999, Phúc Yên, học lớp Mẫu Giáo
Cha Nguyễn Hữu An, Giáo Xứ Chính Tâm, Giáo Phận Phan
Thiết, giới thiệu các trường hợp bệnh tật
ngặt nghèo dưới đây ( Trừ trường hợp đầu, Gospelnet đã trợ giúp 3
trường hợp sau từ tháng 7.2002 ) là những người đang cư ngụ trong xã
Gia Tân, thuộc huyện Ðức Linh, tỉnh Bình Thuận:
1. Chị PHẠM THỊ BÍCH LIÊN, 47 tuổi,
bị bệnh U Tụy, liệt nửa người từ 7 năm nay, chỉ có thể ngồi
một chỗ trên giường ( xem ảnh ), sống nhờ vào người chị gái làm
rẫy, hoàn cảnh rất khó khăn. Chị Liên là vợ một liệt sĩ cách mạng
đã chết trong chiến tranh trước 1975, nay chị muốn tìm hiểu, học Giáo
Lý và xin gia nhập Ðạo.
2. Anh NGUYỄN ÐỨC DUY, sinh 1976, con ông Hoàng Việt
Quý và bà Mai Thị Hoàng. Gia đình có đến 6 người con, luôn trong tình
trạng thiếu đói, riêng em Duy lại bị bệnh viêm não gây bại
liệt.
3. Em NGUYỄN THỊ HƯƠNG, sinh 1989, con ông Nguyễn Văn
Nam và bà Trần Thị Hà. Gia đình có đến 8 người con, luôn trong tình
trạng thiếu đói, riêng em Hương lại bị bại liệt nằm một chỗ.
4. và 5. Anh NGUYỄN VĂN THO, sinh 1967, bà mẹ già
72 tuổi,
cha mất sớm. Gia đình neo đơn chỉ có 2 mẹ con, luôn thiếu đói, hàng
xóm tốt bụng thường giúp cho gạo ăn, anh Tho lại bị bệnh tâm thần mất trí.
Gospelnet xin trợ giúp các gia đình mỗi
tháng 50.000 VND, trong 5 tháng, kể từ tháng 10.2002 đến hết tháng
2.2003. Tổng cộng: 5 người ( có cả bà mẹ già của anh Tho ) x 50.000
VND x 5 tháng = 1.250.000 VND, số tiền được trích ra từ khoản chia
sẻ của Giáo Dân Gx. Mẫu Tâm và Gx. Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Mùa Vọng vừa qua. Xin thay mặt cha An và các gia đình tỏ lòng biết ơn
đến quý ân nhân.
Cha Lê Quang Uy, DCCT, giới thiệu
trường hợp anh PHAN TRỌNG DŨNG, sinh 1977, gốc người Giáo Xứ
Trang Nưa, xã Hưng Nguyên, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An. Anh Dũng đi bằng
2 chiếc nạng, lưu lạc vào Sài-gòn, làm nghề sửa đồng hồ trên đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Ðakao, quận 1, gần đây bị bệnh đau bao tử
và sỏi thận, không đủ tiền để mua thuốc chạy chữa nên bệnh
ngày một nặng. Gospelnet xin gửi qua bạn sinh viên Nguyễn Văn Ca, trợ
giúp cho anh Dũng số tiền 300.000 VND lo thuốc men.
CHƯƠNG TRÌNH HỌC BỔNG CHO 21 EM Ở
ÐÔNG THẠNH - HÓC MÔN
Như Gospelnet số 73 ra ngày 25.8.2002 và số 85 ra
ngày 17.11.2002 đã thông tin, cha Ngô Tấn Lực, DCCT, giới thiệu 12
em học sinh nghèo được trợ giúp 50.000 VND mỗi tháng, kể từ tháng
9 đến hết tháng 12.2002. Nay xin tiếp tục trợ giúp cho hai tháng 1 và
2.2003, tổng cộng: 1.200.000 VND. Ngoài ra, Gospelnet cũng xin tiếp tục
trợ giúp thêm 4 trường hợp già yếu, neo đơn và nghèo ở Quảng
Nam, cho hai tháng 1 và 2.2003, tổng cộng: 400.000 VND. Tất cả số tiền là 1.600.000 VND được trích ra
từ khoản chia sẻ của Giáo Dân Giáo Xứ Mẫu Tâm và Giáo Xứ
Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong Mùa Vọng vừa qua. Xin thay mặt cha Lực
và các gia đình tỏ lòng biết ơn đến quý ân nhân.