TIN MỪNG: Mt 4,12-23
4:12 Khi Ðức Giê-su nghe tin
ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. 4:13 Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở
Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun
và Náp-ta-li, 4:14 để ứng nghiệm lời
ngôn sứ I-sai-a nói:
4:15 Này đất Dơ-vu-lun, và
đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan,
hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại! 4:16 Ðoàn
dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,
những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh
sáng bừng lên chiếu rọi.
4:17 Từ lúc đó, Ðức Giê-su
bắt đầu rao giảng và nói rằng:
"Anh em hãy sám hối,
vì Nước Trời đã đến gần".
4:18 Người đang đi dọc theo
biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-mon, cũng gọi là
Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì
các ông làm nghề đánh cá. 4:19 Người
bảo các ông:
"Các anh hãy theo
tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới
cá".
4:20 Lập tức hai ông bỏ chài
lưới mà đi theo Người. 4:21 Ði một quãng
nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê
và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông
Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. 4:22 Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại
mà theo Người.
4:23 Thế rồi Ðức Giê-su đi
khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng
Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.
SUY NIỆM:
ÁNH SÁNG BỪNG LÊN TRONG BÓNG TỐI CỦA TỬ THẦN.
Vị ngôn sứ cuối cùng
của Cựu Ước đã bị giao nộp. Số phận của ông Gioan cũng không hơn gì
các ngôn sứ đi trước. Ông dám lên tiếng và đã trả giá cho sự
thật. Aùnh sáng chân lý tưởng chừng bị dập tắt để rồi mọi sự lại rơi
vào bóng đêm của tử thần.
Ðức
Kitô chợt xuất hiện nơi miền Galilê dân ngoại. Người là ánh sáng
đã bừng lên giữa những nhiễu nhương của tăm tối tội lỗi trần gian.
Người đến công bố triều đại Thiên Chúa, đem đến ơn giải thoát cho
những ai "đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần".
Ðức
Kitô đến công bố sự thật về một "Nước Trời đã gần đến". Lời
Người làm vang vọng những lời của ông Gioan. Người xác định lại điều
Gioan đã loan báo về Nước Trời đã gần đến. Người công bố với uy tín
của Ðấng "đến sau" nhưng "có trước", "trổi vượt hơn", vì Người là
"Ðấng Thiên Chúa tuyển chọn".
Ngài
mời gọi mọi người hãy có thái độ chuẩn bị tích cực nhất: "anh em phải
sám hối". Tính cấp bách của lời này không thua gì của Gioan. Người ta
phải trở về với Chúa sớm nhất, không trì hoãn. Những ai không dứt
khoát với con đường tối tăm, thỏa hiệp với sự dữ thì chẳng bao giờ
xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Do đó, lòng dạ của Biệt phái,
của Hêrôđê rất xa vắng với Nước
Thiên Chúa gần bên, nhất là khi họ bắt nộp và âm mưu giết hại
Gioan. Chúa Giêsu không phải ngẫu nhiên mà đến rao giảng ở miền
Galilê dân ngoại. Xứ Giuđê quá cứng lòng, đã khước từ sứ điệp của
Gioan. Ðiều đó đã buộc Ðức Giêsu đến ngỏ lời với dân ngoại miền
Galilê.
Dọc
biển bờ hồ Galilê đã có những tâm hồn mở ra cho Nước Thiên Chúa.
Họ chỉ là những anh chài lưới nghèo nàn chất phác. Nhưng con tim họ
thì quảng đại mạnh mẽ khác thường. Vậy là giữa khoảng không thinh
lặng không lời đáp trả đã có những con người biết lắng nghe lời
mời gọi của Ðức Kitô. Họ không chỉ là những công dân mới của Nước
Thiên Chúa. Họ còn mang lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nuớc Thiên
Chúa cho muôn dân. Từ đây, thế gian tăm tối phải mở mắt thấy rằng
nó có thể bịt miệng giết Gioan, hay đóng đinh Ðức Kitô, nhưng chẳng
thể ngăn nổi ánh sáng Lời Chúa chiếu tỏa trên môi miệng môn đệ
Người.
Phêrô,
Anrê, Giacôbê, Gioan đã bỏ lại tất cả để theo Chúa. Hẳn là Ðức
Kitô phải hấp dẫn lắm và sự nghiệp Nước Thiên Chúa phải cao đẹp
lắm mới khiến các chàng ngư phủ mau mắn theo Người như vậy. Vậy mà
Chúa Giêsu chẳng hứa hẹn điều dễ dãi. Rồi số phận của Chúa Giêsu
và các môn đệ cũng chẳng khác gì Gioan. Nhưng các ông và tất cả
các môn đệ thuộc về Ðức Kitô sẽ nhận ra cái logic của Tin Mừng
khác với trần gian: "trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ
Ðấng đã yêu mến chúng ta" (Rm 8, 37).
Mọi
người chúng ta đang mang lấy ánh sáng Ðức Kitô trong mình. Aùnh sáng
của Người đến xua tan những ngóc ngách tăm tối để lòng ta không
ngừng thuộc trọn về Người. Chúng ta hãy mở cửa tâm hồn mình cho ánh
sáng chân lý Chúa chiếu soi. Phải sám hối thật lòng để xứng đáng
với Nước Thiên Chúa đến.
Như
các môn đệ, Chúa mời gọi ta đem ánh sáng cứu độ Chúa cho mọi
người. Nếu thế gian không có ánh sáng Chúa chiếu rọi thì sẽ mãi ở
trong lầm lạc, vô phương giải thoát. Và nếu ánh sáng trong lòng ta
đã tắt lịm thì sẽ chẳng thể thắp sáng cho ai được. Ta hãy xin Chúa
ban cho ta ánh sáng của Người và mau mắn đáp trả sứ mệnh loan báo
Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
JS,
DCCT
CẦU NGUYỆN:
Lạy
Chúa Giêsu,
Con
đường con đi qủa là huyền nhiệm. Con nhớ cách đây 2002 năm, Chúa đang
cầu nguyện. con chiêm ngưỡng Chúa, con nhìn vào Chúa, Chúa cầu nguyện
thâu đêm, cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng. Con không biết
lúc đó , Chúa đã nói gì với Chúa Cha. Nhưng sự liên kết mật thiết
giữa Chúa với Thiên Chúa Cha chỉ cho con hay rằng:"Việc Chúa đang sửa
soạn là điều tối quan trọng". Ơn gọi mà Chúa đang mời một số đi theo
Chúa có tính nhưng không. Chúa muốn chọn , muốn gọi ai là tùy ý
Chúa. Không ai có quyền bắt Chúa phải gọi người này, chọn người
kia. Chúa cầu nguyện để cho mọi người thấy tự sức riêng con người
không thể làm gì được, tự sức lực của mình con người sẽ thất bại ê
chề ! Không cầu nguyện , con người
sẽ sa lầy trong yếu đuối, tội lỗi.
Lạy
Chúa Giêsu,
Chúa
đã cẩn thận hỏi ý Chúa Cha và
Chúa chỉ trao sứ vụ cho nhóm mười
hai sau khi đã thức suốt đêm để cầu nguyện.Vâng, Chúa đã gọi và
chọn mười hai người mà Chúa đích danh gọi họ là tông đồ: Apostoloi,
tiếng Hy Lạp có nghĩa là người được sai đi. Các tông đồ vì là những
người được chính Chúa Giêsu trao sứ vụ
và sai đi, nên họ lệ thuộc vào Chúa, trở thành ngôn sứ của
Chúa,và trung thành với sứ mạng Chúa nhờ họ thực hiện trong nhân
loại, nơi Giáo Hội.
Biến
cố Chúa chọn và thiết lập nhóm mười hai là biến cố lịch sử của
nhân loại, đặc biệt của Giáo Hội. Từ đây, nghĩa là từ giây phút
Chúa gọi đích danh nhóm mười hai là tông đồ. Giáo Hội Chúa Kitô đã
hình thành nơi trần thế này và Hội Thánh Chúa vẫn tồn tại tới muôn
đời:"Con là đá,và trên tảng đá này, Ta sẽ xây dựng Hội Thánh của
Ta "(Mt 16,18 ) .
Lạy
Chúa Giêsu, giây phút long trọng nhất, linh thiêng nhất vào một đêm,
Chúa thức trắng để cầu nguyện, hỏi ý Chúa Cha cách đây 2002 năm và
ý định của Chúa mời gọi những người thành tâm thiện chí đi theo Chúa
để được Chúa gọi là Apostoloi, vẫn còn kéo dài cho tới cùng lịch
sử. Chúa gọi, Chúa sai con người ra đi rao giảng nhưng Chúa luôn tôn
trọng sự tự do của mỗi người. Hư
đi hay tồn tại là do sự quyết định hết sức tự do của mỗi người và
đây là sự huyền nhiệm nhất, bí nhiệm nhất.
Chúa
chọn ngay vài môn đệ đầu tiên nơi giải đất ngoại đao Galilêa để minh
chứng rằng Người không giới hạn sứ mạng trong không gian, thời gian
và nơi chốn.
Xin
Chúa cho chúng con và mọi tông đồ của Chúa hiểu rõ sứ vụ mình đã
lãnh nhận là do Chúa. Ơn gọi của mỗi người là do Chúa. Tất cả đều
do sự chọn lựa nhưng không của Chúa.
Xin
Chúa cho chúng con nhận ra rằng không có Chúa, không nương tựa vào
Chúa, chúng con sẽ té ngã. Có Chúa ở trong lòng,có Chúa ở bên
cạnh, mọi thử thách, mọi chông gai, cam go rồi sẽ qua đi.
Xin cho
chúng con và mọi tông đồ luôn ý thức, luôn cảm nghiệm: "Ơn cứu độä
dành cho mọi người. Chúa không loại trừ bất cứ người nào ". Amen
.
CHỨNG TỪ:
PHÉP LẠ MỄ DU
SỨC KHỎE ÐƯỠC HỒI PHỤC, HÔN NHÂN ÐƯỠC CỨU VÃN
Ðê-vít là một cầu thủ túc cầu của Ai-len
và đồng thời cũng là một ca sĩ được mộ mến trong nước. Anh lập gia
đình với cô An và có được hai mặt con.
Gia
đình sẽ vô cùng hạnh phúc nếu một tuần lễ sau mùa thi đấu hồi
tháng 7/1977 Ðê-vít không khám phá ra mình mắc chứng bệnh mà Y khoa gọi
là bệnh Kôn. Những người mắc chứng bệnh này thoạt tiên thấy đau
trong dạ dày, sau đó là nôn mửa sau mỗi bữa ăn và tiêu chảy. Chỉ
trong vòng 6 tuần lễ từ 102kg Ðê-vít chỉ còn cân nặng 59kg. Vài tháng
sau, Ðê-vít nhập viện để được giải phẫu. Trong 2 năm sau đó, hệ
thống bài tiết của anh chỉ được giải quyết bằng một chiếc túi gắn
ở bên hông. Mặc dù sức khỏe không hoàn toàn hồi phục. Nhưng vì tình
trạng tài chính eo hẹp, Ðê-vít phải hằng đêm đi hát tại các khách
sạn, gia tăng thu nhập cho gia đình. Ðứa con trai 3 tuổi của anh lại
mang bệnh cong cột sống. An, vợ anh, phải ở nhà trông nom con cái. Do
đó, ngoài việc đi hát ban đêm, anh còn phải làm thêm trong một siêu
thị.
Tháng
12/1977, anh được đưa vào bệnh viện để giải phẫu đường ruột. Trong 2
năm sau, anh lại phải trải qua 2 lần giải phẫu nữa. Dù trong 2 năm
liền sau đó, tương đối anh được bình phục, nhưng về mặt thiêng liêng,
anh tuyên bố không còn tin tưởng ở Chúa nữa: "Làm sao có thể có
một Thiên Chúa toàn năng và yêu thương, nhưng lại để cho đứa con trai
của anh bị kết án có thể chết sớm vì bệnh cong cột sống ? Làm sao
một Thiên Chúa toàn năng và yêu thương lại để cho anh, người phải lo
gánh vác gia đình, lại phải quằn quại trong đớn đau ?" Ðê-vít không
đến nhà thờ nữa và anh cũng khuyến dụ vợ anh bỏ lễ Chúa nhật. Anh
cón cảnh cáo vợ không được đọc kinh cầu nguyện trước mặt anh.
Tháng
6/1981 anh lại vào bệnh viện để được giải phẫu một lần nữa. Và 3
năm sau, anh trải qua lần giải phẫu thứ năm. Khi đứa con thứ 3 chào
đời, Ðê-vít hoàn toàn rơi vào thất vọng và bắt đầu một cuộc phiêu
lưu tình cảm. Trong khi không còn biết bám víu vào đâu, vợ anh chỉ còn
biết trông cậy vào ơn Chúa. Chị đi lễ mỗi ngày để cầu nguyện cho
sức khỏe của chồng và nhất là để cứu vãn cuộc hôn nhân của 2 người.
Nhưng
tháng 8/1987, Ðê-vít dọn ra khỏi gia đình. Sau vài tháng sống xa vợ
con, anh trở về. Anh ngạc nhiên đến xấu hổ khi thấy vợ anh không hề
mở miệng trách móc anh điều gì. Dù vậy, đầu năm 1988, anh lại bỏ
nhà ra đi một lần nữa và lại một lần nữa trở về trong vòng tay yêu
thương và tha thứ của vợ anh.
Mùa
Giáng sinh năm đó, sau những cơn đau dữ dội trong dạ dày, anh được đưa
vào bệnh viện để trải qua một cuộc giải phẫu kéo dài 11 tiếng đồng
hồ. Sau cuộc giải phẫu ấy, viên bác sĩ trưởng phòng mổ ra ngoài
phòng đợi để báo cho vợ anh biết rằng anh sẽ không sống quá 10 tuần
lễ nữa. Trong cơn đau tột cùng, vợ anh kêu khóc và cho biết chị không
có đủ can đảm để nói điều đó với chồng. Ngày hôm sau, viên bác
sĩ đã đích thân đến bên giường
bệnh và thông báo cho anh sự thật ấy. Ðê-vít đã đón nhận sự thật
một cách bình tĩnh.
Mỗi
ngày vợ anh luôn có mặt bên cạnh anh để nâng đỡ và anh ủi anh. Giờ
này anh hiểu được thế nào là vai trò của một người vợ và một
người mẹ mà vợ anh đã đảm nhận trong bao nhiêu năm qua. Không bao
lâu, Ban nhạc của anh và các nghệ sĩ quen biết với anh đã biết được
tình trạng sức khỏe của anh. Họ liền tổ chức một buổi ca nhạc để
quyên tiền giúp đỡ gia đình anh. Một người trong ban tổ chức còn nói
rõ tiền thu được của buổi ca nhạc sẽ được dành cho tang lễ của anh.
Quả thật, với trọng lượng 44kg, con người đã từng là một cầu thủ
bóng đá nổi tiếng Ai-len, chấp nhận sự thật là mình phải từ giã
cõi đời.
Tháng
2/1989, trong một buổi tiếp tân để gây quỹ cho anh, ngoài ban nhạc và
các nghệ sĩ tên tuổi trong nước, người ta thấy có một nữ ký giả Tin
Lành. Chị sinh trưởng trong một gia đình Tin Lành ở bắc Ai-len. Vài năm
trước đó, do nghiệp vụ, chị phải làm một bài phóng sự về các cuộc
hành hương tại Mễ Du mà chị xem như là một thứ dị đoan. Nhưng kinh
nghiệm mà chị trải qua tại đây đã thay đổi cái nhìn của chị đến độ
thúc đẩy chị tìm hiểu Ðạo Công Giáo. Hai năm sau, chị xin trở lại
Công Giáo. Với tất cả nhiệt thành, chị và một người bạn đã đứng ra
tổ chức một công ty du lịch chuyên giúp các chuyến đi Mễ Du. Trong
buổi tiếp tân đó, chị quyết định thuyết phục Ðê-vít làm một chuyến
hành hương đến Mễ Du. An, vợ anh sung sướng vô cùng khi hay tin chồng
mình chấp nhận đi hành hương đến Mễ Du.
Nhưng
dĩ nhiên, Ðê-vít đi đến đó để làm vừa lòng vợ hơn là do xác tín cá
nhân. Ngay trong thánh lễ đầu tiên kéo dài 90 phút đồng hồ, anh đã
giận dữ nói với vợ:
-
Anh phải rời bỏ nơi này tức khắc, ngay cả phải đi
một mình.
Vợ anh
nài nỉ:
-
Nếu anh có thể nán ở lại cho đến buổi lễ chiều
nay, em sẽ thu xếp hành lý và đi về với anh tức khắc.
Chiều vợ, anh đã ở
lại để tham dự nghi thức cầu nguyện cho các bệnh nhân. Vào giữa lúc
người ta đưa các bệnh nhân lên gần bàn thờ để được xức dầu và
chúc lành. Ðê-vít cười cợt và chống chế. Anh biết rằng anh chỉ còn
có 2 tuần lễ để sống. Một lần nữa để chiều vợ, anh tiến lên trước
mặt vị linh mục. Vị linh mục đặt thánh giá trên tay phải của anh và
đặt tay ngài trên đầu anh để cầu nguyện. Lúc đó, anh cảm thấy có
một sức nóng lạ thường chạy xuyên qua người.
Về
phòng trọ, anh cảm thấy đói và ăn uống bình thường trở lại. Cơn nôn
mửa và tiêu chảy hoàn toàn biến mất. Anh cảm thấy trong tâm hồn
một sự bình an lạ thường.
Ngày
hôm sau, anh trở lại nhà thờ để xưng tội. Ðây là lần đầu tiên anh
trở lại với Bí tích Hòa Giải sau không biết bao nhiêu năm xa cách
Giáo Hội.
Sau
đó, anh và vợ anh leo lên ngọn đồi Pót-trô, nơi mà người ta tin là
Ðức Mẹ hiện ra cho các thanh thiếu niên Nam Tư hồi tháng 6/1981. Có
một đám đông đang lần chuỗi. Anh ngồi xuống với họ và cố gắng đọc
kinh Lạy Cha và Kính Mừng, nhưng không tài nào nhớ nổi một chữ. Vợ
anh thấy rõ anh đang bị dao động mạnh. Chị đứng dậy vì nghĩ rằng anh
muốn đi về. Anh đứng lên vòng tay ôm lấy vợ xin chị tha thứ và bắt
đầu khóc. Cả hai vợ chồng cùng khóc với nhau trong những giọt nước
mắt sung sướng.
Ðê-vít
từ giã Mễ Du với niềm an bình mà anh chưa từng cảm nhận được. Anh
chia sẻ như sau:
-
Nếu Chúa có nói với tôi rằng: "Bệnh con sẽ
trở lại" thì tôi cũng vẫn không bị mất sự bình an ấy. Tôi sẽ
thưa với Chúa : Con xin vâng ý Chúa miễn là con có được sự bình an
ấy. Con xin chấp nhận chịu bệnh này để đền bù vì những khổ đau con
mà đã gây ra cho An và hai gia đình.
Trở
về, Ðê-vít được các bác sĩ chẩn đoán cho biết rằng các triệu chứng
của bệnh Kôn đã hoàn toàn biến mất. Ðê-vít đã thu bài Ave Maria
của… như một bài ca tạ ơn dâng lên Mẹ Maria. Tại một Ðại hội Thánh
Mẫu tại California, Hoa Kỳ, anh đã được mời đến để hát và chia sẻ
kinh nghiệm được chữa lành của anh. Với anh, cuộc hôn nhân được cứu
vãn và sự bình an mà anh có được là điều quan trọng hơn cả việc anh
được chữa lành trong thân xác.
CÂU TRUYỆN:
TIẾNG GỌI TRONG
THINH LẶNG
Toàn
bộ sư đoàn lính Mỹ trong doanh trại Rô-bớc ( Robert ) đang chuẩn bị một
cuộc diễn binh đón chào ông bộ trưởng Quốc Phòng. Nào các cỗ xe
tăng chuyển hành ầm ầm, nào các khẩu trọng pháo được kéo đến, rồi
tiếng giày lính nện lên mặt đường nhựa của đoàn quân đi nhịp nhàng
theo khúc nhạc quân hành hùng tráng...
Cả một khu vực và
vùng trời vang động rộn rã, thế mà một đàn chiên vẫn thản nhiên
từ từ tiến bước từ thảm cỏ này đến cánh đồng kia, nhích dần đến
gần con đường người ta đang duyệt binh...
Bộ chỉ huy phát hiện
ra đàn chiên liền phái đến một tiểu đội quân cảnh để lùa đàn
chiên tránh đi hướng khác. Họ mở còi hụ, la hét om sòm lên, nhưng
đàn chiên vẫn nhởn nhơ gặm cỏ. Rồi cả một trung đội vệ binh được
tăng cường. Cũng hò hét, hụ còi inh ỏi, nhưng đành chịu, đàn chiên
vẫn bình thản thưởng thức món cỏ xanh thiên nhiên hào phóng, mỗi
lúc một tiến gần doanh trại hơn. Ðúng lúc ấy, đoàn xe mô-tô dẫn
đầu đoàn xe hơi của phái đoàn bộ trưởng đã vào đến cổng trại.Làm
sao bây giờ ? Không ai được quyền dùng đá để ném, dùng gậy để đánh
đuổi đàn chiên, bởi như thế là chọc giận Hội Bảo Vệ Súc Vật và
báo chí khắp nơi. Toàn bộ đạo quân trang bị hùng hậu như vậy đành
phải thúc thủ trước đối thủ quá ư hiền lành này hay sao ? Bỗng,
chiếc xe Gíp ( Jeep ) của thiếu tướng chỉ huy trưởng trại Rô-bớc phóng
đến, và từ trên xe, Linh Mục Tuyên Úy Mai-cân ( Michael ) nhảy xuống,
chạy đến nói nhỏ vào tai vị sĩ quan vệ binh. Sau đó, cả trung đội tập
hợp ngay, đứng vào vị thế nghiêm. Và thinh lặng bao trùm lên tất cả
đạo quân trong phút chốc !
Chính vào lúc hoàn
toàn thinh lặng này, người ta mới nghe thấy có tiếng sáo của người
mục đồng mãi từ trên một ngọn đồi gần đấy vọng xuống. Thế là cả
đàn chiên tức khắc ngoan ngoãn quay gót, cùng nhau lũ lượt chạy lên
mỏm đồi giữa những tiếng thở phào nhẹ nhõm của quan quân trong đoàn
vệ binh...
Chỉ cần một tiếng
sáo mục đồng du dương nhè nhẹ ấy thôi, cũng đủ để kêu gọi cả đàn
chiên đi lạc hướng quay trở về, trả lại khung cảnh trang nghiêm cần
thiết cho buổi lễ duyệt binh. Bao nhiêu tiếng hò hét, tiếng còi hụ
inh ỏi đều bó tay. Càng nhiều tiếng huyên náo thì đàn chiên lại
càng không tài nào nghe được tiếng sáo đơn sơ nhỏ nhẹ của chú bé
mục đồng.
Sống trong thế giới
hôm nay, chúng ta cũng bị bao vây bởi quá nhiều tiếng động xô bồ và
âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe
được tiếng gọi Ðức Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành. Chỉ cần thinh lặng,
một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi
của người chăn dắt. Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh
khắc phút giây trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ
thanh âm của sự tĩnh lặng ( The Sound of Silence ), nghe được lời gọi
của Thiên Chúa và nhận ra Người ? Phải chi chúng ta cũng biết trao
tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa,
để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với
chúng ta ?
THÔNG TIN:
...Sau đây là những công việc rất mong
quý vị và các bạn cùng tham gia để giúp các em và vui xuân với các
em trong những ngày Tết:
- Gói
bánh chưng, nấu bánh chưng
- Lo
ẩm thực hậu cần
- Tiếp
cận, đón giao thừa với trẻ
- Tập
múa lân cho trẻ
- Ðưa
trẻ đi múa lân, chúc Tết các gia đình thân hữu
- Chơi
với trẻ ở trung tâm tạm trú, hướng dẫn trò chơi, bài hát
- Trực
văn phòng, Trung tâm tạm trú
- Hỗ
trợ xe đưa trẻ đi chơi
- Ðóng
góp quần áo, tiền, đồ chơi...
- Chụp
ảnh
Rất
mong nhận sự đóng góp ý kiến và giúp đỡ của quý vị.
Chân
thành cảm ơn.
Thảo
Ðàn đã có một kế hoạch cụ thể cho chương trình đón Tết này. Thời
gian từ ngày 09/02/2002 đến ngày 13/02/2002 ( tức là từ 28 Tết đến
mùng 2 Tết ).
Muốn
biết mọi chi tiết cụ thể, xin quý độc giả liên hệ với Thảo Ðàn
theo địa chỉ:
451/1
Hai Bà Trưng P8, Q3
ÐT: 8 465 410